Cho thuê chồng, đổi vợ ở miền Tây Nam bộ

( PHUNUTODAY ) - #160;(Phunutoday)- Mỗi tuần Tám T. về nhà cô B. làm chồng 3 ngày, được toàn quyền sử dụng xe cộ đắt tiền và các vật dụng trong nhà như một “chủ nhân ông” thực sự.


Vợ chồng... “thằng Đậu”

Ở miền Tây Nam bộ, tiếng lóng “vợ chồng thằng Đậu” dùng để chỉ những cặp vợ chồng lười biếng, vụng về, ăn xài thì giỏi nhưng làm lụng thì dở, thường là gánh nặng cho gia đình, cha mẹ hai bên.

Mới đây, ở xã Mỹ Phong – thành phố Mỹ Tho – tỉnh Tiền Giang cũng có một cặp vợ chồng “đúng chuẩn” như “vợ chồng thằng Đậu”. Mỹ Phong là một xã ngoại thành thuộc thành phố Mỹ Tho, đây là vùng đất màu mỡ nằm bên bờ sông Tiền quanh năm nước ngọt, trĩu nặng phù sa. Cư dân ở xã này có tiếng là chí thú làm ăn, bởi nơi đây nổi tiếng khắp cả nước với nghề trồng hoa tết và nghề sản xuất sợi hủ tíu, bún, bánh từ bột gạo.

Hàng năm cứ đến những tháng giáp tết, cả làng Mỹ Phong trở nên rực rỡ với những cánh đồng trồng hoa kiểng đủ các loại, để rồi sau đó hoa kiểng từ đây theo xe, tàu đi đếm mọi miền đất nước mang mùa xuân đến cho mọi nhà. Nằm giữa vùng “gạo trắng nước trong”, người dân Mỹ Phong không dừng lại ở sản xuất ra hạt gạo ngon, mà qua bàn tay cần mẫn của họ, lúa gạo trở thành những loại bánh, những hàng hóa có giá trị gia tăng, giúp người dân càng thêm khấm khá.

Sống ở Mỹ Phong, người ta không sợ thiếu việc làm, không sợ nghèo, mà chỉ sợ không đủ thời gian trồng hoa, làm bánh giao cho khách hàng, chỉ tiếc khi phải lấy đất sản xuất để cất nhà, vì đất ở đây đúng là “tấc đất tấc vàng”.

Phần lớn người nông dân Mỹ Phong là vậy, thế nhưng vợ chồng Tám T. là một ngoại lệ. Ông bà thường hay nói, “nồi nào úp vung nấy”, trường hợp này quá đúng với vợ chồng Tám T. Hồi còn thanh niên trai tráng, Tám T. không chấp nhận cảnh quanh năm làm lụng đầu tắt mặt tối trên ruộng rẫy. Lưng dài, vai rộng, lại thêm cái mã ngoài trắng trẻo điển trai, Tám T. tối ngày rong chơi ca hát, đàn đúm nhậu nhẹt chơi bời cùng chúng bạn và…cua gái.

Vợ Tám T. cũng là thôn nữ nhưng tẩy chay nghề nông, lúc nào cũng chưng diện son phấn mịt trời, quần là áo lượt bóng dợn, chuyện ở ngoài thành phố Mỹ Tho biết nhiều hơn chuyện trong xóm. “Trai anh hùng, gái thuyền quyên” gặp nhau vào một ngày đẹp trời cách nay hơn chục năm và một đám cưới tưng bừng được tổ chức. Chỉ hai năm sau, của hồi môn đội nón ra đi hết, đất đai của hai bên nội ngoại cho hai vợ chồng cũng lần lượt về tay người khác theo đà ăn như tằm ăn rổi của mấy đứa con nối nhau ra đời.

Làng hoa kiểng Mỹ Phong
Làng hoa kiểng Mỹ Phong vào xuân.

Vợ chồng Tám T. lâm cảnh khốn khó, suốt ngày cắn đắng nhau chuyện cơm gạo, tiền nong, nhưng không ai chịu động móng tay móng chân làm nghề gì để kiếm sống, hết tiền, hết gạo thì vợ chồng con cái dắt díu nhau chạy về nội ngoại hai bên tá túc cho qua cơn nguy cấp. Bà con thân tộc ai thương tình trợ cấp cho được đồng nào thì hai vợ chồng lại thi nhau cà phê sữa, thuốc lá thơm, cơm sườn…như một gia đình quý tộc.

Riết rồi cả hai bên họ tộc nhà nào cũng sợ vợ chồng con cái Tám T. đến thăm. Cuộc sống của vợ chồng Tám T. sẽ cứ mãi “nghèo mà sung sướng”, dù thiếu trước hụt sau nhưng không thèm làm động móng tay, con cái của họ lớn lên cũng chịu cảnh nghèo và học theo cha mẹ cái gương…”làm biếng”, nếu như không có một chuyền tình cờ, hi hữu xảy ra làm thay đổi cuộc sống của họ, làm xôn xao bà con làng xóm ở Mỹ Phong.

Cho thuê…chồng

Giữa lúc cuộc sống đang thiếu trước hụt sau, các con không tiền đóng học phí mà cha mẹ hai bên thì không ngớt miệng rầy la mỗi khi thấy vợ chồng Tám T. đến “thăm”, thì đột ngột “quới nhơn” xuất hiện làm thay đổi cuộc đời của “vợ chồng thằng Đậu”. Trong một lần được các chiến hữu khi xưa rủ đi uống cà phê tán dóc ngoài thành phố Mỹ Tho, tình cờ Tám T. lọt vào mắt xanh của một phụ nữ đã cứng tuổi, nhưng vẻ ngoài cực kỳ sang trọng. Bữa đó, Tám T. đang ngồi tán dóc với bạn bè trong quán cà phê nhưng bụng dạ rối bời vì chẳng còn một xu dính túi thì bất chợt nghe mùi nước hoa đắt tiền thơm nực nồng ngay sát bên cạnh.

Liền đó một giọng oanh vàng thỏ thẻ cất lên: “Anh gì ơi, làm ơn cho em hỏi thăm, phải anh là con bác S. ở phường 3 không ? Em thấy anh quen lắm”. Tám T. vội vàng ngước lên nhìn, thấy trước mắt là một phụ nữ lạ hoắc, gương mặt chẳng có nét gì đáng chú ý, chỉ được cái trên người toàn đồ hiệu đắt tiền.

Nhưng Tám T. vẫn nhã nhặn trả lời: “Xin lỗi, chắc cô nhìn lầm người”. Chẳng dè, người phụ nữ sang trọng mở lời: “Em thấy anh quen lắm, giống hệt một người bạn thân từ nhỏ của em, vậy anh và các bạn cho em ngồi đây nói chuyện với anh chút xíu được không?”. Dĩ nhiên Tám T. và đám bạn không đời nào từ chối.

Những câu chuyện Nam Tào Bắc Đẩu vu vơ kéo dài hết buổi sáng, người phụ nữ trước khi chia tay ra về còn giành thanh toán toàn bộ tiền cà phê của cả hội và mời riêng Tám T. hôm sau đến tại quán này cùng uống cà phê. Khi người phụ nữ sang trọng bước ra khỏi quán, qua các nhân viên phục vụ bàn của tiệm cà phê, Tám T. mới biết “cô nàng sang trọng, cứng tuổi” kia tên B., là giáo viên dạy ngoại ngữ của một trường trung học nổi tiếng ở Mỹ Tho nhưng nay đã nghỉ dạy ra mở lò luyện ngoại ngữ, sống độc thân, rất giàu có, model.

Được đám chiến hữu lên dây cót tinh thần, máu chinh phục đàn bà của Tám T. nóng lại nên nhanh chóng quyết định: mai tiếp tục ra đây uống cà phê mặc cho vợ con nheo nhóc, nhà thiếu trước hụt sau.

Sau nhiều lần cùng nhau uống cà phê, Tám T. nhận ra rằng không phải mình đi chinh phục mà đang bị cô giáo ngoại ngữ chinh phục, bởi cô B. thẳng thừng thừa nhận, ngay lúc nhìn thấy Tám T. cô đã bị hớp hồn nên đến làm quen chứ chẳng biết ai là con bác S. ở phường 3. Vài ngày sau, cô B. nói thẳng cho Tám T. biết, cô lớn hơn Tám T. 3 tuổi và muốn chung sống với T., bất chấp chuyện anh này đã có vợ con.

Điều kiện đưa ra hết sức đơn giản: mỗi tuần Tám T. về nhà cô B. làm chồng 3 ngày, được toàn quyền sử dụng xe cộ đắt tiền và các vật dụng trong nhà như một “chủ nhân ông” thực sự. Đổi lại, cô B. sẽ lo lắng cho Tám T. chu toàn và trả tiền “công làm chồng” mỗi ngày một triệu đồng. Cô B. yêu cầu Tám T. về bàn bạc với vợ con để thống nhất “hợp đồng thuê chồng”, nếu đồng ý thì thực hiện ngay lập tức.

Tám T. đem chuyện cô B. về hỏi ý vợ, chẳng ngờ bà vợ nghe vậy không thèm nổi cơm tàm bành như bao phụ nữ khác mà cười tươi rói, gật đầu đồng ý cái rụp, lại còn ra điều kiện: tiền công làm chồng phải đem hết về đưa cho vợ, trách nhiệm lo cho Tám T. từ nay thuộc về cô B.

Vậy là chỉ sau một đêm, Tám T. từ anh nhà quê thất nghiệp, không đồng xu dính túi trở thành “giáo sư ngoại ngữ”, ba ngày trong một tuần mang giày da láng bóng, áo bỏ trong quần bảnh bao, đi xe gắn máy đời mới bóng lộn cặp kè bên bà “giáo sư ngoại ngữ” lớn hơn mình 3 tuổi. Những ngày không làm chồng thì Tám T. về nhà vợ lớn nằm khểnh hoặc lăn lóc với đám chiến hữu bên bàn cà phê, sóng nhậu. Nếu cô B. có nhu cầu tăng thêm thời gian “thuê chồng” đột xuất, vợ Tám T. sẳn sàng chấp nhận, nhưng những ngày như vậy thì…tiền công tăng gấp đôi theo kiểu “làm ngoài giờ”.

Chuyện Tám T. làm nghề “chồng thuê” xứ Mỹ Phong ai cũng dị nghị. Cười Tám T. một nhưng họ cười người vợ của anh “chồng thuê” tới mười. Mấy bà già trầu ở làng Mỹ Phong nói, xưa nay chưa thấy người đàn bà nào như vợ Tám T. Nhưng ai nói gì mặc họ, vợ Tám T. luôn tự hào là nhờ cho thuê chồng mà gia cảnh ngày càng khấm khá, mua sắm được nhiều tiện nghi sinh hoạt đắt tiền, lúc nào cũng có tiền rủng rỉnh trong túi để ăn xài, chưng diện.

Còn Tám T. nhờ làm chồng thuê cho cô B. nên nghiễm nhiên được nhiều người tâng bốc gọi là “giáo sư ngoại ngữ” và xem ra anh chàng rất khoái nghe mọi người gọi mình như vậy.

Chỉ có mấy bậc bô lão ở Mỹ Phong và đám chiến hữu từng cùng Tám T. uống rượu đế với cóc ổi trong góc vườn tạp ngày xưa mỗi lần nghe người ta hỏi thăm nhà ông Tám T. “giáo sư ngoại ngữ” ở Mỹ Tho thì cười ngất, nói: “Giáo sư ngoại ngữ gì cái thằng đó, tiếng Việt viết còn như cua bò, tiếng Tây tiếng u không biết được chữ nào, chỉ giỏi được mỗi chuyện…làm giống”. Mặc ai nói gì thì nói, vợ chồng Tám T. cứ điềm nhiên sống cuộc sống khá giả nhờ cho thuê chồng.

Mỗi tuần cho thuê 3 ngày, mỗi ngày 1 triệu tiền công, vị chi mỗi tháng vợ Tám T. được chồng đem tiền “cho thuê…giống” về nộp 12 – 13 triệu đồng, những tháng có “tăng ca” còn nhiều hơn. Đó là thu nhập “như mơ” đối với một gia đình nông dân ở ngoại thành thành phố Mỹ Tho. Mấy bà sồn sồn ở cùng xóm có lần hỏi cắc cớ vợ Tám T.: “Mày cho thuê…giống như vậy, nó “đóng thuế” ở ngoài hết trơn, đến khi về nhà với mày nó có “trả bài” nổi hôn?”.

Vợ Tám T. cũng không vừa, đã trả lời: “Tui giao thằng chả “làm trai hai vợ phải thương cho đồng”, đằng này tui là vợ lớn, lại trẻ đẹp hơn, thì thằng chả phải “đóng thuế” cho tui nhiều hơn”. Không biết chuyện “đóng thuế” nhiều ít thế nào, mà có lần sáng ngồi uống cà phê với bạn bè, người ta nhìn thấy Tám T. ngáp vắn ngáp dài, có con ruồi đậu trên mép mà anh ta không buồn đuổi. Một người biết chuyện, tỏ ra thông cảm với Tám T. nên nói: “Thiệt cũng khổ cái kiếp đàn ông, thôi thì sướng cái này thì cực cái kia, không chịu làm lụng chân chính để sống thì phải chịu “cày” chuyện khác để trả nợ đời”.

Chuyện tình trong rừng U Minh Thượng

Câu chuyện “đổi vợ có bù lỗ” sau đây khi mới nghe ai cũng tưởng chuyện đùa, nhưng đây lại là chuyện có thật 100%, xảy ra ở vùng rừng U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang. Chuyện xảy ra cách nay đã gần 5 năm, trên cánh đồng rộng mêng mông thuộc xã An Minh Bắc (huyện U Minh Thượng), nhưng cho tới nay vẫn là đề tài bàn luận sôi nổi trong các đám giỗ, đám cưới.

Khi đã có chút rượu, nếu có ai đó gợi lại chuyện “đổi vợ có bù lỗ”, tức thì cả bàn nhậu tham gia sối nổi, mỗi người góp một chi tiết, kể lại chuyện đổi vợ có một không hai này. Thực ra ban đầu người ta kể về chuyện này có hàm y phê phán, nhưng sau nhiều năm, khi mọi việc đã an bày, người ta nhắc đến chủ yếu vì vui, không có ác ý với những người trong cuộc.  Xã An Minh Bắc trước đây thuộc huyện An Minh, nhưng bây giờ được chia cắt về huyện mới U Minh Thượng.

An Minh Bắc nằm trong vùng đệm của Vườn Quốc gia U Minh Thượng rộng 14.290 ha. Trước đây, để bảo vệ vùng rừng nguyên sinh và khai thác tiềm năng của vùng đệm, tỉnh Kiên Giang đưa hơn 3.500 gia đình nghèo, không đất sản xuất ở khắp nơi trong tỉnh vào vùng đệm định cư sản xuất, mỗi hộ được cấp 4 ha để cất nhà định cư, đào vuông, đắp bờ bao lên liếp trồng tràm, khóm, mía, rau màu, cây ăn trái và nuôi cá với nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, thấp nhất 25 triệu đồng/hộ và cao nhất hơn 30 triệu đồng/hộ.

Hai người đàn ông trong câu chuyện “đổi vợ” cho nhau cũng thuộc diện nghèo khó, quê ở địa phương khác, khi vào vùng đệm U Minh Thượng thì cả hai đều đã có gia đình, con cái và mỗi hộ đều được cấp 4 ha đất trong vùng đệm để mưu sinh lập nghiệp. Hai gia đình được cấp đất ở cạnh nhau nên trở thành hàng xóm láng giềng, nhưng trên thực tế thì nhà này cách nhà kia một khoảng đồng tới 200m.

Do ở vùng kinh tế mới, đường sá đi lại rất khó khăn, nhà nào cũng trong cảnh nghèo khó như nhà nấy nên từ chỗ người dưng nước lã, hai gia đình láng giềng trở nên thân thiết đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, con cá, củ khoai, mớ rau rừng đều chia đôi cho bữa ăn hàng ngày của họ.

Anh T. nhờ hồi nhỏ học hết tiểu học, biết mặt chữ, biết làm toán cộng trừ nhân chia nên được UBND xã An Minh Bắc thu nhận làm nhân viên tài chính ấp, ngoài thời gian cùng vợ lo việc đồng áng hàng ngày thì còn có nhiệm vụ vác cuốn tập học trò đi khắp xóm thu thuế nông nghiệp phụ với tổ thuế của xã.

Anh V. tính tình cục mịch, ít chữ nghĩa nên tối ngày quần quật ngoài đồng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời cày xới, trồng trọt đủ thứ cây trồng trên 4 ha đất nhiễm phèn để mong thoát cảnh nghèo khó.

Cuộc sống tuy khó khăn nhưng cả hai gia đình đều thuận hòa, thơm thảo. Những ngày mưa gió không thể ra đồng, hai ông chồng lại rủ nhau xuống kênh bắt cá, vào rừng đặt bẫy chồn chuột, rắn trăn, vừa cải thiện bữa cơm vừa có mồi bén lai rai vài xị rượu đế cho ấm bụng.

Lâu dần thành thông lệ, hễ lần trước tổ chức nhậu ở nhà anh T. thì lần sau có mồi ngon thế nào tiệc rượu cũng được gầy sòng ở nhà anh V. Những lúc như vậy, hai chị vợ vừa lo chăm chút mồi nhậu cho hai anh chồng, vừa tâm sự với nhau chuyện gia cảnh, bà con họ hàng, làm ăn khốn khó.

Anh T., ngày mới vào vùng U Minh Thượng quê một cục, nhưng nhờ làm được chức “cán bộ thu thuế ấp” nên có dịp giao tiếp với nhiều người, được cán bộ xã rủ đi đây đi đó lai rai nên cái miệng ăn nói ngày càng lưu loát, trơn tru, dẽo quẹo và trong tiệc nhậu thường hay kể cho anh V. và các bà phụ nữ nghe những chuyện trên trời dưới ruộng mà anh T. lượm được qua những buổi nhậu xa nhà.

Đổi vợ có bù lỗ

Cho tới một ngày, anh V. tóm được chú rắn hổ hành mập ú và tới lượt mình phải tổ chức lai rai nên anh V. kêu vợ nấu cháo đậu xanh con rắn, mời vợ chồng anh T. qua thưởng thức. Nồi cháo gần cạn cũng là lúc hai ông bạn chí thân “cưa” gần hết 2 lít rượu đế, hai bà vợ cũng ngà ngà, mặt đỏ ửng bên bếp than hồng.

 Không biết ma rừng U Minh Thượng xui khiến hay nồi cháo rắn hổ hành nấu đậu xanh kèm với hai gương mặt đàn bà đỏ hừng hừng bên bếp lửa làm cao hứng, anh T. vọt miệng đề nghị: “V., tui với ông đổi vợ đi, vợ gì ở gần chục năm cũ xì, đổi vợ cho nó…mới nhà mới cửa”.

 Nghe anh T. nói, anh V. cười sằng sặc, nói: “Ông mới uống bao nhiêu đó đã say, bữa nay sao yếu xìu vậy. Bạn bè thân nhau, có rượu nói chơi cho vui trong bàn nhậu không sao, nhưng ở đời ai mà làm chuyện kỳ như vậy để thiên hạ đàm tiếu à”. Trong lúc đó hai bà vợ cũng cười ngặt ngoẽo, đấm vai nhau thùm thụp trước lời đề nghị của anh T. Đối với họ, chuyện đùa vui bạo mồm bạo miệng cỡ đó không phải là chuyện gì quá đáng.

Chuyện tới đó thì tiệc tàn, anh V, và hai bà vợ cứ tưởng ma men dẫn lối nên anh T. mới nói sàm. Nhưng anh T. thấy mọi người cười vui sau lời đề nghị của mình mà chẳng có ý kiến phản ứng hay cự cãi, nên cứ đinh ninh trong bụng tất cả đều xuôi chèo mát mái.

Chưa đầy 3 ngày sau, anh T. đi lùng bắt cho bằng được mấy con chuột cống nhum béo ú, xuống đò ra chợ An Minh Bắc mua ký thịt bò, về hối vợ làm món ngon mời vợ chồng anh V. qua lai rai. Nhậu được nửa chừng, anh T. nhắc lại chuyện đổi vợ hôm trước với giọng tỉnh rụi. Anh V. nghe xong ngồi chết trân, còn hai bà vợ thì cũng im thin thít như ngậm hột thị vì không biết phải trả lời ra sao.

Thấy mọi người im lặng, anh T. rót ly rượu mời anh V., lên giọng khích bác: “Làm đàn ông thì phải dám chịu chơi, đổi vợ xong tui với anh ai cũng còn vợ, có mất mát gì đâu mà sợ”. Nghe anh T. khích tướng, sẳn có hơi men trong người, anh V. không cần suy nghĩ, lớn tiếng trả lời: “Đổi thì đổi, thằng V. này đâu có sợ ai. Đổi vợ xong thì con của ai phải đi theo vợ người đó à nghen. Tiệc rượu hôm nay coi như là…tiệc cưới luôn”.

 Được lời như cởi tấm lòng, anh T. đồng ý cái rụp. Trong lúc đó thì hai bà vợ la bài hãi, phản đối kịch liệt. Nhưng tối đến, hai ông chồng nhất định không cho vợ vào nhà, vì đã “ký giao kèo” đổi vợ. Ngủ ngoài sân cho muỗi rừng châm chích gần một tuần lễ, lại thêm bản tính quê mùa nhút nhát luôn phục tùng chồng, nên cuối cùng hai bà vợ anh T. và anh V. cũng chấp nhận ôm quần áo, dẫn con về nhà chồng mới.
Sau khi “cưới” vợ anh V. một tuần, anh T. lại bày tiệc nhậu, mời anh V. và vợ cũ của mình qua nhà lai rai. Ngà ngà hơi men, anh T. đứng dậy tuyên bố: “Sau khi bàn bạc vợ chồng tui quyết định, do vợ cũ của tui xấu hơn vợ cũ anh V. nên tui phải “bù lỗ” cho anh một cây vàng 24k”.

Nói xong anh T. móc trong túi ra một lượng vàng đã chuẩn bị sẳn trao tận tay anh V., nói: “Tui không có tiền, nhưng thấy anh thiệt thòi quá, nên đem cầm miếng đất lấy một lượng vàng bù lỗ cho anh”. Vàng trao vợ đổi đã xong, cả hai cặp vợ chồng “cũ mà mới” lại xúm nhau ăn nhậu tưng bừng cho tới say mèm rồi anh V. lận lưng cây vàng, dắt vợ mới về nhà.

Vừa bước lảo đảo ra khỏi nhà, anh V. vừa cặp kè người vợ mới, vừa nói vọng vào với anh T. và người vợ cũ: “Vợ chồng tui cảm ơn anh T. và…vợ cũ của tôi, tui sẽ đem cây vàng này sửa lại nhà cho…vợ anh có nhà cửa đàng hoàng, kẻo bà con người ta chê cười. Nói thiệt với anh, vợ anh cũng còn…xuân sắc lắm, anh bù lỗ 1 cây vàng như vầy là thiệt cho anh quá. Cảm ơn, cảm ơn…”.

Dường như sau khi đã tỉnh táo trở lại, những người trong cuộc cảm thấy có cái gì đó không ổn, nhưng mọi chuyện đã đi quá xa, không ai có thể khắc phục chuyện đã rồi.

Vì vậy mà hơn ba tháng sau ngày đổi vợ, trong khi anh V. vẫn ở lại trên mảnh đất được cấp, cùng vợ mới ngày ngày cày sâu cuốc bẫm chí thú làm ăn, thì anh T. và vợ cùng con của anh V. quyết định dắt nhau xuống chiếc ghe nhỏ, chèo đi nơi khác lập nghiệp. Họ ra đi lặng lẽ, không cần chào hỏi bà con lối xóm, như thể họ cảm thấy mình có lỗi đã làm cho cuộc sống vốn bình lặng nơi đây bỗng chốc xôn xao, chao đảo.

Theo người dân U Minh Thượng, hiện nay anh V. và vợ anh T. đã có với nhau thêm mấy mặt con, trong khi anh T. và vợ anh V. cùng đàn con đi đâu làm ăn sinh sống thì không ai có tin tức. Một cán bộ xã An Minh Bắc cho biết, sau ngày xảy ra chuyện đổi vợ có một không hai giữa anh T. và anh V., ban đầu dư luận còn đàm tiếu nhưng hiện giờ “ván đã đóng thuyền”, họ hàng hai bên cũng đồng ý công nhận. Chỉ duy nhất một điều là anh V. và vợ mới nhất định không chịu làm giấy đăng ký kết hôn, nên mấy đứa trẻ con chung của họ làm giấy khai sinh rất khó.

Câu chuyện “đổi vợ có bù lỗ” giữa anh T. và anh V. không phải do những người trong cuộc thiếu hiểu biết pháp luật mà ra, họ thừa hiểu làm như vậy là sai, nhưng do “ma đưa lối quỷ dẫn đường” mà họ hành động như vậy.

Ma quỷ” ở đây không có gì xa lạ, đó chính là chất men được làm ra từ lúa gạo mà người nông dân một nắng hai sương vất vả sản xuất ra. Thành quả lao động thay vì góp phần làm cho cuộc sống của họ khấm khá lên, đằng này lại quay lại tàn phá cuộc sống, hạnh phúc của họ bằng những chầu nhậu triền miên, thâu đêm suốt sáng. Xét cho cùng, những người vợ, người chồng trong câu chuyện “đổi vợ có bù lỗ” là nạn nhân nhiều hơn là thủ phạm, họ đáng thương hơn là đáng trách. Nếu cuộc sống tạo điều kiện cho họ có những cách giải trí, vui thú khác hơn là bàn nhậu, ắt hẳn “chuyện lạ rừng U Minh Thượng” đã không xảy ra!


(*) Tên thật của nhân vật trong bài đã được thay đổi.

  T.D
TAGS:
Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn