Cuộc hôn nhân hiếm muộn của Châu Nhuận Phát

( PHUNUTODAY ) - 90 thì không thể không nhắc tới diễn viên gạo cội Châu Nhuận Phát.

(Phunutoday) - Nếu phải tìm một đại diện “cỡ bự” của điện ảnh Hồng Kông trong suốt thập niên 80 - 90 thì không thể không nhắc tới diễn viên gạo cội Châu Nhuận Phát. Những vai diễn trong “Anh hùng bản sắc”, “Thần bài” rồi tiếp đó là “Ngọa hổ tàng long” đã khiến tên tuổi của nam diễn viên họ Châu được hàng triệu người trên khắp thế giới biết tới.

Thành công rực rỡ trong sự nghiệp, tuy nhiên, Châu Nhuận Phát lại gặp phải không ít lận đận trong cuộc sống riêng tư. Hiện tại, đã bước vào độ tuổi gần 60 và trải qua hai đời vợ, thế nhưng ông hoàng của điện ảnh Hồng Kông một thời vẫn chưa có được một đứa con nối dõi…

1. Châu Nhuận Phát sinh ngày 18 tháng 5 năm 1955 tại Nam Nha Đảo, Hồng Kông trong một gia đình người Khách Gia nghèo. Khi còn nhỏ, Châu thường phải dậy sớm để giúp mẹ bán đồ điểm tâm trên phố rồi buổi chiều, cậu lại phải ra đồng làm việc.

Năm Châu Nhuận Phát lên 10 thì cả gia đình chuyển đến Cửu Long. Năm 17 tuổi, Châu Nhuận Phát phải bỏ học để giúp đỡ gia đình bằng nhiều nghề khác nhau như trực khách sạn, đưa thư, bán máy ảnh và tài xế taxi.

Diễn viên Châu Nhuận Phát
Diễn viên Châu Nhuận Phát


Bước ngoặt cuộc đời đưa Châu Nhuận Phát từ một anh thanh niên nghèo đến vị trí ông hoàng của điện ảnh Hồng Kông là vào năm 1973, khi anh tình cờ đọc được một thông báo tuyển diễn viên của hãng TVB - hãng truyền hình lớn nhất của Hồng Kông lúc bấy giờ.

Sau khi được hãng TVB tuyển chọn và ký hợp đồng 3 năm, Châu bắt đầu tham gia các bộ phim truyền hình của TVB và nhanh chóng trở nên nổi tiếng nhờ ngoại hình cao to (Châu cao tới 1,85m) và khả năng diễn xuất.

Năm 1980, Châu thực sự trở thành ngôi sao của màn ảnh nhỏ Hồng Kông sau khi thủ vai Hứa Văn Cường trong bộ phim truyền hình dài 25 tập “Bến Thượng Hải”. Cho tới nay, bộ phim này vẫn được coi là một trong những bộ phim truyền hình thành công nhất mà TVB đã từng sản xuất.

Sau “Bến Thượng Hải”, Châu Nhuận Phát lại tiếp tục thành công qua vai Lệnh Hồ Xung trong phiên bản truyền hình năm 1984 của tiểu thuyết võ hiệp “Tiếu ngạo giang hồ”.

Song song với các bộ phim trên màn ảnh nhỏ, Châu Nhuận Phát cũng bắt đầu thử sức ở lĩnh vực điện ảnh. Bộ phim điện ảnh đầu tiên của anh là “Trì nữ” - một phim cấp 3 - nhưng bộ phim không thành công và diễn xuất của Châu cũng ít gây được chú ý. Người ta vẫn chỉ biết đến Châu Nhuận Phát chủ yếu qua những bộ phim truyền hình dài tập.

Năm 1981, Châu Nhuận Phát có được thành công điện ảnh đầu tiên với vai diễn trong bộ phim “Chuyện của Hồ Việt” của đạo diễn Hứa An Hoa. Nhưng phải chờ đến năm 1986, Châu Nhuận Phát mới thực sự có được một vai diễn đột phá khi anh được đạo diễn Ngô Vũ Sâm chọn vào vai Lý Mã Khắc cho bộ phim “Anh hùng bản sắc”.

Sau khi ra mắt, “Anh hùng bản sắc” đã thành công vang dội cả về mặt doanh thu và nghệ thuật, được coi là tác phẩm kinh điển của thể loại phim hành động Hồng Kông và được xếp thứ hai trong danh sách các bộ phim hay nhất của điện ảnh Hoa ngữ 100 năm qua, còn Châu Nhuận Phát lập tức trở thành ngôi sao hành động mới của điện ảnh Hồng Kông.

Sau thành công đầu tiên, Châu tiếp tục hợp tác với đạo diễn Ngô Vũ Sâm trong các bộ phim hành động thành công khác như “Anh hùng bản sắc 2” năm 1987, “Điệp huyết song hùng” năm 1989.

Không chỉ đóng đinh với các vai anh hùng hành động, Châu còn thành công với các bộ phim tình cảm như “Đồng thoại mùa thu” năm 1987 hay “Câu chuyện của A Lang” năm 1989.

Năm 1989, Châu Nhuận Phát vào vai “thần bài” Cao Tiến trong phim “Thần bài” của đạo diễn Vương Tinh. Bộ phim thành công vang dội và mở ra một thể loại phim mới của điện ảnh Hồng Kông - dòng phim về đề tài cờ bạc. Bộ phim cũng là dấu mốc khẳng định vị trí ngôi sao lớn nhất của điện ảnh Hồng Kông giai đoạn cuối những năm 1980.

Giữa thập niên 1990, sau rất nhiều thành công ở thị trường điện ảnh Hồng Kông, Châu Nhuận Phát bắt đầu tham gia các bộ phim của Hollywood với hy vọng sẽ trở thành một ngôi sao người Hoa ở tầm quốc tế như Lý Tiểu Long đã từng làm. Tuy nhiên, những gì diễn ra ở Hollywood sau đó không giống như Châu Nhuận Phát mong đợi.

Dù tham gia rất nhiều bộ phim, song tên tuổi của Châu Nhuận Phát gần như không được ai biết tới. Cho tới năm 2000, khi Châu tham gia bộ phim võ hiệp “Ngọa hổ tàng long” của đạo diễn Lý An - một đạo diễn Hollywood gốc Hoa, thành công lớn của bộ phim một lần nữa đưa Châu trở lại vị trí ngôi sao lớn của điện ảnh tiếng Hoa.

Kể từ đó cho tới nay, với tư cách một ngôi sao gạo cội của làng điện ảnh Hồng Kông, Châu Nhuận Phát liên tục xuất hiện trong những bộ phim bom tấn của điện ảnh Hoa ngữ và Hollywood như “Hoàng Kim Giáp” của Trương Nghệ Mưu năm 2006, “7 viên ngọc rồng” rồi mới đây nhất là “Khổng Tử” và “Thượng Hải”.

Thành công và vị trí của Châu Nhuận Phát trong làng điện ảnh Hồng Kông nói riêng và Hoa ngữ nói chung là không thể bàn cãi. Chẳng thế mà giới truyền thông Hoa ngữ mỗi khi nhắc tới Châu Nhuận Phát đều bắt chước cách gọi của giới xã hội đen trong các bộ phim Hồng Kông gọi Châu là “Phát ca” (anh Phát).

Tuy nhiên, dù vô cùng thuận lợi trong sự nghiệp, từ một thanh niên nghèo trở thành ông hoàng của điện ảnh Hồng Kông, song cuộc sống hôn nhân của Châu Nhuận Phát lại không mấy thuận buồm xuôi gió, thậm chí có không ít vấn đề rắc rối, đau đầu.

2. Châu Nhuận Phát trải qua hai cuộc hôn nhân. Vào năm 1983, Châu kết hôn với Dư An An. Khi đó họ được coi là một cặp trai tài, gái sắc khi Châu là ngôi sao số một của hãng TVB trong khi Dư An An là ngôi sao của ATV - một đối thủ của TVB. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đầu tiên ở tuổi 28 của Châu Nhuận Phát kết thúc một cách nhanh chóng.

Chỉ 10 tháng sau khi rời khỏi nhà thờ, Châu Nhuận Phát và Dư An An đã làm thủ tục ly dị. Cuộc sống hôn nhân thực sự chỉ đến với Châu Nhuận Phát vào năm 1987 khi Châu gặp Trần Oải Liên - con gái một thương gia giàu có người Singapore.

Trong suốt hơn 20 năm chung sống, cuộc sống hôn nhân giữa Châu Nhuận Phát và Trần Oải Liên được coi là rất yên ấm và hạnh phúc. Nhiều người còn cho rằng, đây là cặp đôi ít gây điều tiếng nhất trong làng giải trí Hoa ngữ.

Châu Nhuận Phát và vợ
Châu Nhuận Phát và vợ


Tuy nhiên, cũng kể từ khi trở thành vợ chồng cho tới nay đã hơn 20 năm nhưng Trần Oải Liên và Châu Nhuận Phát vẫn chưa có được một mụn con nào.

Trên thực tế, Trần Oải Liên đã từng mang thai một lần nhưng sau đó bị sảy và từ đó tới nay, người ta không nghe thấy bà Châu có tin vui thêm một lần nào nữa. Nhiều người cho rằng, có thể lần sảy thai đó là nguyên nhân khiến Trần Oải Liên không thể mang thai được nữa.

Tuy nhiên, các nhà âm dương thì lại tin rằng, số mệnh của Châu Nhuận Phát đã quy định, Châu là người có được sự nghiệp nhưng mất đường con cái.

Châu Nhuận Phát sinh vào lúc 18h38’ ngày 18/5, như vậy, tính theo Bát tự thì Châu khởi vận từ năm 4 tuổi, các đại vận lớn trong cuộc đời của Châu Nhuận Phát lần lượt là: Năm 1959 (vận Canh Thìn), năm 1969 (vận Kỷ Mão), năm 1979 (vận Mậu Dần), năm 1989 (vận Đinh Sửu), năm 1999 (vận Bính Tý), năm 2009 (vận Ất Hợi), năm 2019 (vận Giáp Tuất), năm 2029 (Quý Dậu).

Phân tích Bát tự của Châu Nhuận Phát cho thấy, Nguyệt lệnh có Ấn tinh Tỵ Hỏa, vượng mà thụ sinh. Ấn tinh đại diện cho danh tiếng, điều này lý giải vì sao Châu Nhuận Phát từ một người không hề được đào tạo qua trường lớp nào lại có thể thành công như vậy trong sự nghiệp.

Các nhà âm dương nói rằng, Tỵ Hỏa ở Nguyệt lệnh trong Bát tự của Châu Nhuận Phát đã rất vượng, lại thêm, Nhật chi là Mão Mộc tương sinh trợ giúp. Ngoài ra, nghề nghiệp của Châu Nhuận Phát là điện ảnh, thuộc hỏa vượng, do vậy, Tỵ Hỏa ở Nguyệt lệnh không chỉ vượng mà còn không ngừng được bổ sung.

Từ phân tích này thì có thể nói, Châu Nhuận Phát không phải không có khả năng sinh con. Chỉ có điều là Châu không thể có con gái mà thôi. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa số mệnh Châu Nhuận Phát với nghề nghiệp cũng như những người Châu lựa chọn làm bạn đời lại khiến Châu không thể nào có con “nối dõi” được.

Theo các nhà âm dương, vào năm 1983, năm Quý Hợi, Châu bước vào vận Mậu Dần, Quý Thủy khắc chế Tân Kim, do vậy, Thê tinh đến đúng vị trí của nó. Đây là lý do vì sao, vào năm này, Châu Nhuận Phát có một cuộc kết hôn chớp nhoáng với Dư An An.

 Tuy nhiên, do Hợi Thủy khắc Tỵ Hỏa, do vậy Dư An An không thể nào có con với Châu Nhuận Phát. Thậm chí, như đã nói cuộc hôn nhân giữa Châu và Dư chỉ kéo dài vỏn vẹn có 10 tháng.

Tới năm 1987, năm Đinh Mão, Châu Nhuận Phát vẫn còn ở vận Mậu Dần, do Đinh Hỏa khắc Tân Kim, nên đây vẫn là năm Châu có thể kết hôn. Tuy nhiên, trong năm này, Trần Oải Liên rất khó có con. Sang năm 1988, tức năm Mậu Thìn cũng vậy.

Từ năm 1989, khi bước sang vận mới là Định Sửu, Đinh Hỏa khắc Tân Kim, vợ Châu Nhuận Phát có khả năng mang thai.

Tuy nhiên, do Sửu Thổ triệt Tỵ Hỏa, lại thêm Trần Oải Liên tuổi Hợi mà Hợi thì khắc Tỵ nên dù trong năm này có thể mang thai thì cái thai cũng rất khó giữ được. Đây cũng chính là năm mà Châu Nhuận Phát đón nhận tin buồn khi mất đứa con duy nhất của mình.

Như vậy, có thể thấy rất rõ dù bản thân số mệnh của Châu Nhuận Phát không quá xấu, tuy nhiên, phong thủy nghề nghiệp cũng như tình duyên đã khiến “ông hoàng” điện ảnh Hồng Kông một thời không thể có con nối dõi.

Cù Thăng
[links()]

TAGS:
Theo: