NSND Trà Giang chỉ biết yêu có mỗi một lần

( PHUNUTODAY ) - Tuy Trà Giang đã dừng bước với điện ảnh và trở về với cuộc sống của một người phụ nữ bình thường, nhưng sự yêu mến dành cho chị thì chưa bao giờ giảm đi trong lòng nhiều người hâm mộ.


Người phụ nữ với đôi mắt biết nói của điện ảnh Việt

Mỗi năm, khi có các sự kiện lịch sử, những thước phim “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” hay “Chị Tư Hậu” vẫn được phát lại trên truyền hình. Dù lướt qua thì hình ảnh người phụ nữ có đôi mắt biết nói trong những bộ phim kinh điển của điện ảnh Việt Nam thời kỳ đó vẫn luôn gây ấn tượng cho khán giả, dù là trong lần chạm mắt đầu tiên. Sẽ không quá nếu nói rằng, cái tên Trà Giang đã gắn liền với những bộ phim nổi tiếng của nền điện ảnh cách mạng Việt Nam.

Sinh năm 1942 tại Quảng Ngãi, nhưng năm 1954, khi mới 12 tuổi, NSND Trà Giang đã theo cha mẹ tập kết ra Bắc. Chính vì thế, dù là người miền Nam, nhưng những năm tháng ở miền Bắc đặc biệt có nhiều dấu ấn quan trọng trong cuộc đời cũng như con đường nghệ thuật của chị.

Cha của NSND Trà Giang là NSƯT Nguyễn Văn Khánh – đạo diễn sân khấu. Vô cùng lưu luyến với mảnh đ
t Quảng Ngãi – nơi đã sinh ra và lớn lên, nên khi anh em Trà Giang ra đời, NSƯT Nguyễn Văn Khánh đã lần lượt đặt tên cho con trai và con gái là Ấn Sơn và Trà Giang (núi Thiên Ấn và sông Trà vốn là những địa danh nổi tiếng của vùng đất này”.

Trước lúc tập kết ra Bắc, gia đình NSND Trà Giang sống ở Bình Lâm (thuộc Bình Thuận). Ngày đó cuộc sống của gia đình Trà Giang rất khó khăn, vất vả. Cha chị thường đi công tác liên miên, thỉnh thoảng mới có thời gian ghé qua nhà. Lương của một trưởng đoàn nghệ thuật của ông không đỡ đần được gì nhiều cho đời sống gia đình. Để có kế sinh nhai, mẹ và bà ngoại Trà Giang phải làm bánh ít để bán.
 NSND Trà Giang
NSND Trà Giang

 Lên 5 tuổi, NSND Trà Giang đã biết thế nào là mùi vị chiến tranh. Những năm giặc Pháp càn ráo riết, cả gia đình Trà Giang thường xuyên phải di tản để tránh giặc càn. Khi đó cô bé Trà Giang cũng phải theo gia đình di chuyển hết từ nơi này đến nơi khác.

 Thời gian đoàn văn công của cha Trà Giang giải tán, cán bộ đoàn không còn đi diễn nghệ thuật nữa mà phải về tăng gia sản xuất, bữa đói bữa no, có bữa phải ăn cháo với củ chuối thay cơm, gia đình Trà Giang vì thế mà cũng đói no theo những vất vả, khó khăn của cả đoàn.

Trước lúc tập kết, gia đình NSND Trà Giang ở Bình Lâm (thuộc Bình Thuận). Thời đó, nhà nghèo lắm. Ba chị là Trưởng đoàn văn công tuyên truyền, đi công tác liên miên, má và ngoại chị làm bánh ít bán.

Giặc Pháp càn ráo riết, cả nhà phải dời về Phan Thiết. Ba chị vào Sài Gòn ra Khu 8 gặp các bác Khương Mễ, Mai Lộc học về điện ảnh để phổ biến ở miền Trung. Cuộc kháng chiến ngày một khó khăn nên cả đoàn văn công của ba chị cũng phải giải tán, về với việc sản xuất, bữa đói bữa no, có khi phải ăn cháo củ chuối thay cơm.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ba chị tập hợp lại đoàn văn công. Những ngày đó, khi đoàn đi diễn kịch, Trà Giang cũng được đi diễn chung. Thế rồi, tin tập kết được truyền tới mọi người.

 Sau năm 1954, theo gia đình các cán bộ miền Nam, Trà Giang cũng được đưa ra miền Bắc và theo học ở Trường Học sinh miền Nam (trường dành cho con em cán bộ miền Nam ra tập kết ở miền Bắc). Những ngày đầu mới ra miền Bắc, chị thường nhớ miền Nam đến mức òa khóc.  Nhưng sau này, khi thích nghi với nếp sống mới, thích nghi với những con người mới ở miền Bắc, chị đã dần coi miền Bắc là một phần máu thịt, là quê hương thứ hai của mình.

Ra miền Bắc theo học ở Trường Học sinh miền Nam, thỉnh thoảng lắm mỗi khi đến dịp nghỉ hè, nghỉ lễ tết, Trà Giang mới có dịp về thăm cha mẹ ở khu tập thể văn công ở Mai Dịch. Mỗi lần về, cha chị thường ngắm nhìn cô con gái nhỏ của mình và sớm phát hiện ra tố chất của một nghệ sĩ trong con người Trà Giang.

Nhưng khi đó Trà Giang còn quá bé. Muốn con gái mình yên ổn với việc học tập, nên dù có những đồng nghiệp cùng là đạo diễn sân khấu đã nhận ra tố chất của Trà Giang, nhưng cha chị - NSƯT Nguyễn Văn Khánh vẫn chưa để con gái bước chân vào con đường nghệ thuật.

Năm 1959, Trà Giang thi đỗ vào trường múa. Nhưng con đường đến với nghề múa của Trà Giang đã sớm dừng lại khi cha chị nói với con gái: “Con có một gương mặt đẹp, sao không thử thi làm diễn viên?”. Đúng dịp đó Bộ Văn hóa tổ chức thi tuyển diễn viên cho khóa đầu tiên của Trường Điện ảnh. Việc tuyển sinh do các chuyên gia nước ngoài trực tiếp phụ trách.

Chính NSƯT Nguyễn Văn Khánh đã tự chụp ảnh con gái mình, gửi ảnh và giúp Trà Giang đăng kí dự thi. Trà Giang vẫn nói ngày đó chị chưa bao giờ nghĩ mình đẹp, trước đó cũng chưa từng thấy ai khen mình đẹp, nhưng khả năng nhiếp ảnh của cha chị đã khiến ông chụp con gái mình ở những góc ảnh đẹp nhất.

Là người rất ăn ảnh và có đôi mắt biết nói, Trà Giang nhanh chóng lọt qua vòng thi tuyển sinh, trở thành lớp diễn viên đầu tiên của Trường Điện ảnh, cùng lớp với thế hệ Minh Đức, Thụy Vân, Kim Chi….

Thế hệ lớp diễn viên đầu tiên của Điện ảnh Việt Nam của Trà Giang tuy phải chịu nhiều thiệt thòi, thiếu thốn về cơ sở vật chất cũng như điều kiện học tập, nhưng đổi lại Trà Giang và những người bạn cùng lớp luôn được các chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam hướng dẫn, dạy dỗ một cách tận tình, bài bản về kỹ năng diễn xuất.  Vai diễn đầu tiên của Trà Giang là một vai phụ trong phim “Vợ chồng A Phủ”.

Trong bộ phim đó, Trần Phương đóng vai A Phủ, Đức Hoàn đóng vai Mị…, còn Trà Giang được nhận 1 vai quần chúng nhỏ, chỉ kịp lướt qua trên màn ảnh. Nhưng sau vai diễn đó, chị đã bắt đầu cảm nhận được sự say mê với nghề diễn viên.

Ngày đó, trong trường điện ảnh có nhiều người xinh đẹp, nhưng Trà Giang luôn là người lọt vào “mắt xanh” của các đạo diễn. Chính vì thế, lần lượt các vai diễn quan trọng bắt đầu đến với sự nghiệp điện ảnh của Trà Giang.
 

Tên tuổi của Trà Giang dần được khẳng định và trở nên không thể thay thế. Chị trở thành sự lựa chọn số 1 của nhiều đạo diễn. Những bộ phim như “chị Tư Hậu”, “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” sau này đã dần trở thành những bộ phim để đời của nền điện ảnh Việt Nam nói chung và của cá nhân Trà Giang nói riêng.

Trong đời diễn viên của mình, Trà Giang có rất nhiều kỉ niệm không bao giờ quên.

May mắn được sống trong một giai đoạn lịch sử vô cùng quan trọng của dân tộc, bên cạnh những khó khăn, vất vả, thiệt thòi do chiến tranh, nhưng đổi lại Trà Giang và những diễn viên cùng thế hệ với chị có được vốn sống phong phú và những cảm xúc rất chân thật, sống động cho vai diễn của mình. Đó chính là một phần lí do khiến những vai diễn của chị và nhiều đồng nghiệp đều có được sự thành công và gây tiếng vang lớn.

Còn nhớ khi đóng bộ phim “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” cũng là lúc chị đang mang thai cô con gái Bích Trà. Nhưng bất kể bụng mang dạ chửa, có những cảnh quay khó, buộc phải quay vào ban đêm, quay liên tục trong nhiều đêm và phải lội xuống nước lạnh, Trà Giang vẫn sống chết thực hiện đến cùng để có những thước phim đẹp nhất, sống động nhất cho điện ảnh Việt Nam.

Với vai diễn chị Tư Hậu trong bộ phim cùng tên, Trà Giang không chỉ có một bộ phim để đời mà còn dành được trọn vẹn tình yêu mến của nhiều khán giả. Thời gian chị là đại biểu Quốc hội, có lần có một đại biểu Quốc hội cùng khóa đến tìm và tìm cách nói chuyện bằng được với chị.

Đến lúc nói chuyện, chị mới biết anh là chồng của chị Tư Hậu ở ngoài đời và anh đến gặp chị - người đóng vai vợ mình trên phim chỉ để nói đôi lời cảm ơn về một vai diễn quá hay, quá xuất sắc, khiến cả gia đình anh đều nức lòng.

Lần đó chị sung sướng đến chảy nước mắt, vì không ngờ cuộc đời mình lại có những cuộc gặp gỡ tình cờ, thú vị nhưng vô cùng đặc biệt đến thế. Lúc đó chị biết ơn và trân trọng vô cùng nghề diễn viên của mình. Vì nhờ đó chị mới có một cuộc gặp đặc biệt và đầy cảm động như thế.

Mối tình đầu tiên và duy nhất

Là một người phụ nữ đẹp, nhưng cả cuộc đời mình, NSND Trà Giang chỉ có có duy nhất một mối tình. Người đàn ông may mắn đó là cố Giáo sư – Tiến sĩ âm nhạc Nguyễn Bích Ngọc.

Trà Giang nổi tiếng từ rất sớm nên được nhiều người biết tới. Ngày trẻ có không ít người đàn ông ngưỡng mộ nhan sắc của chị. Chị không đẹp rực rỡ, nhưng vẻ đẹp của chị là vẻ đẹp mà càng nhìn người ta càng cảm thấy đi vào lòng người. Thời ấy trong đoàn làm phim, rất nhiều nghệ sĩ, quay phim, đạo diễn ngỏ ý với Trà Giang. Nhưng cuối cùng chị lại chọn Bích Ngọc.

Với NSND Trà Giang, điều khiến chị yêu và cảm phục nhất ở chồng mình chính là ý chí bền bỉ và sự đồng điệu về tâm hồn giữa hai con người. Ngày trẻ, Bích Ngọc làm việc trong đoàn văn công của NSƯT Nguyễn Văn Khánh – cha của Trà Giang. Tuy là một diễn viên múa, nhưng Bích Ngọc lại say mê âm nhạc. Để học nhạc, thường người ta phải học từ năm 7 – 8 tuổi.

Nhưng Bích Ngọc đến tận năm 14 – 15 tuổi mới học, mà toàn tự học một mình. Nhưng chàng thanh niên Bích Ngọc đã học một cách bền bỉ, say mê, mỗi khi có thời gian rảnh là lại cầm đàn ra kéo. Nhờ sự kiên trì đó, mà sau này Bích Ngọc có được sự thành công với con đường âm nhạc mà mình đã chọn, trở thành một nghệ sĩ violon xuất sắc và là người đào tạo ra nhiều nghệ sĩ violon có tên tuổi ở Việt Nam.

Thời gian học tại Học viện âm nhạc Tchaiscopky, khi bộ phim “Chị Tư Hậu” do Trà Giang đóng vai chính được mang sang Liên Xô (cũ) chiếu tại liên hoan phim, Bích Ngọc đã vô cùng ấn tượng với cô diễn viên có đôi mắt biết nói trong phim. Anh nhanh chóng nhận ra đó chính là cô con gái nhỏ của NSƯT Nguyễn Văn Khánh – “sếp” cũ của anh khi anh còn công tác tại Đoàn Văn công Liên khu 5. Ngay khi xem bộ phim đó, Bích Ngọc dường như đã thầm thương trộm nhớ Trà Giang.

Sau này khi về Việt Nam, Bích Ngọc đã nhiều lần tìm cách gặp Trà Giang nhưng không tìm được, thế nhưng duyên số sắp đặt thế nào mà có một lần Bích Ngọc và Trà Giang lại tình cờ chạm mặt nhau khi cùng đến thăm bạn tại đường Trần Phú.

Sau lần gặp bất ngờ đó, Bích Ngọc và Trà Giang thường xuyên liên lạc với nhau. Năm 1964, khi Bích Ngọc tham gia cuộc biểu tình chống Mỹ tại Matxcova bị thương (nhân sự kiện Vịnh Bắc Bộ 5/8/1964), Trà Giang đã viết thư sang động viên Bích Ngọc với những lời lẽ quan tâm và bày tỏ sự lo lắng.

Sau lá thư đó, họ dần nhận ra tình cảm dành cho nhau. Năm 1966, khi Bích Ngọc trở về Việt Nam sau khi tốt nghiệp Học viện âm nhạc Tchaixcopky, tình yêu giữa Bích Ngọc và Trà Giang càng được thắt chặt. Năm 1967, trước khi Bích Ngọc quay trở lại Liên Xô học nghiên cứu sinh, Trà Giang và Bích ngọc đã quyết định làm đám cưới.
1
 

Đám cưới của Trà Giang – Bích Ngọc diễn ra vào năm 1967 là một đám cưới giản dị đến bất ngờ. Ngày đó ai cũng nghĩ một nữ diễn viên nổi tiếng như Trà Giang thì sẽ phải làm một đám cưới trang trọng, linh đình.

Nhưng chị lại chọn cách tổ chức một đám cưới ấm cúng, giản dị. Bởi khi đó thấy hoàn cảnh đất nước chiến tranh, cha thì đi chiến trường, mẹ thì vất vả nuôi hai em nhỏ, nên Trà Giang không muốn đám cưới của mình phô trương, rình rang quá mức cần thiết.

Ngày đi lấy chồng, chị nhờ mẹ làm cho bữa cơm mời khách, với đại diện gia đình hai bên và vài bạn bè thân thiết của Trà Giang. Trong lễ cưới, cô dâu mặc quần lụa đen, áo sơ mi hồng giản dị. Còn nhớ hôm đó, đúng bữa cơm thân mật mừng đám cưới, giặc Mỹ ném bom bất ngờ, nên tất cả mọi người tham dự đám cưới, từ cô dâu, chú rể đến gia đình, bạn bè hai bên đều phải chui xuống hầm trú ẩn, đợi máy bay Mỹ hết ném bom mới dám lên.

Khoảng lặng bình yên sau bão tố

Sau khi kết hôn, Trà Giang và Bích Ngọc được phân cho một căn phòng nhỏ chừng 9m2, nguyên là phòng dựng phim của Hãng Phim truyện, sau khi bộ phận dựng phim chuyển về số 4 Thụy Khuê.

Cả căn phòng nhỏ 9m2 đó chỉ có một cái bàn, một cái chạn bát, một cái giường và một cái tủ quần áo. Căn phòng chật chội đến nỗi để có chỗ để chạn bát, Bích Ngọc và Trà Giang phải cơi nới thêm ra một góc nhỏ ở đầu nhà. Còn mỗi lần muốn lấy quần áo treo trong tủ thì phải trèo hẳn lên giường để lấy vì không có chỗ đứng. Căn phòng không có bếp. Mọi việc nấu nướng đều phải chung với các gia đình khác trong căn bếp tập thể của cả khu.

Ngày đó đời sống nghệ sĩ vô cùng khó khăn. Ngay cả Trà Giang – một nữ diễn viên nổi tiếng cũng không phải ngoại lệ. Sau khi cô con gái Bích Trà – con gái đầu lòng và cũng là duy nhất của vợ chồng Trà Giang – Bích Ngọc chào đời, cuộc sống của gia đình Trà Giang càng thêm vất vả.

Muốn mua cho con một cây đàn dương cầm, nhưng phải dành dụm rất nhiều năm, vợ chồng Trà Giang – Bích Ngọc mới có đủ số tiền để thực hiện ước mơ đó. Thế nhưng tất cả những khó khăn đó không làm cho tình yêu của vợ chồng Trà Giang – Bích Ngọc thay đổi. Đến cuối đời, họ vẫn dành cho nhau những tình cảm yêu thương, chân thành và say đắm.

Sống với chồng mấy chục năm trời, điều mà NSND Trà Giang trân trọng và yêu thương nhất ở chồng mình chính là tính cách điềm đạm, ít nói nhưng tình cảm và sự hết lòng chăm lo cho vợ con của chồng. Hai vợ chồng chị sống với nhau rất tình cảm nhưng chân thành và không hề màu mè.

Sự đồng điệu về tâm hồn đã khiến họ gắn bó suốt mấy chục năm trời, cho đến khi Giáo sư – Tiến sĩ âm nhạc Bích Ngọc ra đi vì bạo bệnh cách đây hơn 10 năm. Đến giờ nhắc đến chồng mình, nhớ đến những kỉ niệm về chồng, nhớ đến sự quan tâm của người chồng quá cố, chị vẫn rơi nước mắt.

Sự ra đi của Bích Ngọc đã để lại trong lòng Trà Giang một nỗi trống vắng không thể bù đắp được. Ngay trước lúc mất, trên giường bệnh, Bích Ngọc vẫn nắm tay Trà Giang và nói: “Anh còn làm được gì cho em và con thì anh sẽ làm”. Cho đến tận phút cuối cùng sống cạnh nhau, chị vẫn luôn cảm động về tình yêu mà chị nhận được từ người chồng tuyệt vời của mình.

Những ngày sau khi chồng mất, Trà Giang thường đi đi lại lại trong căn nhà quen thuộc và đầy ắp kỉ niệm của mình. Có những lúc chị cảm thấy tưởng như không thể lấy lại thăng bằng. Khi chồng còn sống, chị đi tập thể dục buổi sáng hay đi bách bộ buổi chiều cũng đều có chồng bên cạnh sóng đôi.
Chị nấu cơm hay ăn cơm cũng có chồng bên cạnh. Chị dọn dẹp nhà cửa cũng có chồng giúp đỡ. Khi anh mất, chị nhận ra chị chỉ còn một mình, cô đơn, bơ vơ. Và nếu lúc đó không có hội họa làm bầu bạn, chị khó lòng mà có thể “sống tiếp” và vượt qua nỗi đau lớn nhất của đời mình.

Con gái Bích Trà – kết quả của tình yêu giữa Trà Giang và Bích Ngọc đã trở thành một nghệ sĩ piano nổi tiếng, là niềm tự hào vô cùng của chị. Bích Trà cũng là “nhân vật” quen thuộc trong các tác phẩm hội họa của Trà Giang, là tình yêu và niềm an ủi của Trà Giang sau khi chồng chị qua đời.

Giờ chị không còn xuất hiện nhiều trước công chúng mà ẩn mình trong căn nhà của mình giữa Sài Gòn rộng lớn, dành thời gian cho hội họa và cho những nỗi nhớ thương của riêng mình. Trong khoảng không gian riêng của mình, chị tìm được sự bình yên cho tâm hồn, sau những nỗi đau đã qua…

Lâm Bình
TAGS:
Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn