Chuyện kể rằng: ở vùng đất Vĩnh Gia bên Trung Quốc đời nhà Tống, có một anh chàng tính nết thất thường, họ Trần tên Tạo, tự Lý Thường.
Lúc còn nhỏ, Tạo rất thích chơi trò đấu kiếm. Cậu ta có thể ngồi cả ngày để nghe kể chuyện về các anh hùng hảo hán và hết sức khâm phục lòng dũng cảm, đức tính trung thực của những con người “đội trời đạp đất, thỏa chí vẫy vùng” ấy.
Lớn lên, Tạo thường lân la tìm gặp các chí sĩ giang hồ để học mót các chiêu võ nghệ và cùng bọn họ ngao du đây đó. Vậy là Tạo cũng nghiễm nhiên tự liệt mình vào danh sách “cùng hội cùng thuyền” với những bậc kẻ sỹ anh hùng kia, và lúc nào cũng rất tự tin mà tỏ ra sẵn lòng làm việc nghĩa, giúp bạn, cứu người.
Lạ thay, khi vừa bước sang tuổi trung niên Trần Tạo bỗng nhiên thay đổi tính nết. Tạo chán ghét cuộc sống giang hồ và lạc vào chốn văn chương, chữ nghĩa. Có lúc, Tạo háo hức với ý nghĩ bước lên văn đàn để tạo dựng thanh thế với đời. Nhưng tiếc thay, cũng vì tài non, trí đoản nên đành “lực bất tòng tâm”.
Đã quá nửa đời người, mà xem ra Tạo ta vẫn công chẳng thành, danh chưa toại. Trần Tạo lúc này đâm ra nản chí, bèn quay về sống ẩn dật rồi lấy vợ, sớm hôm vui thú ruộng vườn. Vì đã có một thời “giang hồ quen thói vẫy vùng”, vào cung ra kiếm, lúc múa gươm chốn thị thành, khi khua chèo nơi biển vắng… lại vốn là người sống có nghĩa tình nên dẫu Tạo đã quay về ở ẩn nhưng các huynh đệ, chiến hữu cũ vẫn thường xuyên lui tới nhà Tạo để đàm đạo thế sự, hoặc cũng chỉ là giữ mối giao tình và cùng giải khuây bên chén rượu cuộc trà.
Chẳng nói ra thì ai cũng biết, cùng đến với các chàng trai “anh hùng” ấy bao giờ cũng có cả các ca kỹ, vũ nữ. Họ xinh tươi, lại hát hay, múa đẹp… Thế là, Tạo kia vốn tiếng là “ở ẩn” mà vẫn cứ lại qua, vẫn cứ chè rượu linh đình với bạn bè chiến hữu, cũng khó lòng mà tránh khỏi cái cảnh lả lướt, liếc mắt đưa tình với các cô nương đương thì xuân sắc vốn đi cùng với cánh chiến hữu giang hồ kia vậy.
Thấy hoài cái cảnh đó, vợ Tạo là Liễu Thị rất ấm ức, cơn ghen nổi lên tắc nghẹn ở cổ. Liễu thầm nghĩ:
“Biết đâu, trong số những cô vũ nữ cầm ca xinh đẹp, tài ba kia, lại chẳng có kẻ tà tâm, muốn chiếm đoạt chồng mình”.
Không kìm được máu ghen tức, một lần kia Liễu Thị bèn đứng phắt dậy cầm gậy vụt lấy vụt để vào tường, vào phản, vào bàn. Vừa vụt, Liễu vừa kêu la, quát tháo chửi bới ầm ĩ hết cả lên! Các chiến hữu giang hồ của Tạo cùng hết thảy bọn ca nữ hiện diện trong bữa tiệc kẻ thì ngại ngùng quá, kẻ thì e sợ điều kia tiếng nọ mà ba chân bốn cẳng tìm lối tháo thân.
Trần Tạo cũng biết sự tình như vậy là bất nhã lắm! Nhưng vốn là người sợ vợ, nên không dám đứng ra khuyên ngăn. Anh ta cứ đứng im một chỗ, hai tay khoanh trước ngực, mắt nhìn lấm lét, vẻ mặt đầy sợ hãi như muốn lẩn tránh cặp mắt hung dữ và khuôn mặt đỏ phừng phừng đang trong cơn “bốc lửa tam bành” của cô vợ!
Nghe được tin ấy, Tô Đông Pha – danh sỹ đương thời, cũng là bạn xã giao với Tạo, đã đề thơ tặng cho anh chàng này như sau :
“Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên”
Ý tứ là:
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống
Gậy tuột khỏi tay tim bàng hoàng
Chữ “Hà Đông” ở đây là có ý ám chỉ người đàn bà họ Liễu (Thơ Đỗ Phủ có câu: “Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu”). Còn “sư tử hống” là cách chơi chữ, trong đó có hàm ý biểu thị cho sự uy nghiêm.
Trong tiếng Việt, thành ngữ “Sư tử Hà Đông” nhằm ám chỉ những người thuộc phái đẹp có tính nóng giận bốc lửa và ghen tuông ghê gớm. Mỗi khi ‘nổi máu tam bành’ thì có thể làm cho các đức ông chồng kinh hồn, bạt vía, khiến bao dũng lược của giới mày râu cũng phải tiêu tan thành mây khói cả!
Vợ là quả ớt chín cây
Đỏ tươi ngoài vỏ rất cay trong lòng.
Vợ là một đoá hoa hồng
Vợ là "sư tử Hà Đông" trong nhà.
Vợ là nắng gắt mưa sa
Vợ là giông tố phong ba bão bùng.
Nhiều người nhờ Vợ lên Ông
Nhiều người vì Vợ mất không cơ đồ
Vợ là cả những vần thơ
Vợ là cả những giấc mơ vơi đầy
Vợ là một chất men say
Là nước hoa ngoại làm ngây ngất lòng
Vợ là một áng mây hồng
Vợ là hoa hậu để chồng mê say.
Tác giả: