Hôm ấy sau khi dùng bữa xong, sắp tới thời gian bế quan nhập thiền, A Đẩu đi ngang gian nhà sau ghé mắt nhìn qua cửa thì thấy A Đồng đang ngồi bên bậc thềm ngấu nghiến gặm miếng bánh bao, mắt cậu tiểu tử trong veo. Vẻ mặt hiếu kỳ đang cúi nhìn gì đó.
A Đẩu đánh tiếng hỏi:
– A Đồng con đang làm gì đó?
Tiểu tử hồn nhiên đáp:
– Dạ con đang nhìn chó con ăn bánh bao !
A Đẩu thoáng vui vì thấy đồ đệ có lòng thiện lương. Ông đẩy cánh cửa ngó ra. Cửa gỗ rít cạch cạch… bỗng A Đẩu thất kinh hồn vía: thấy trước mặt là một con sói xám đang nhìn ông chằm chằm. Theo phản xạ, ông vớ cây chổi rễ hô lớn:
– A Đồng! Sói đấy chạy vào nhanh!
A Đồng đang thích thú ngắm, nghe thầy hô lớn, nó giật mình chẳng kịp nhìn thầy, ba chân bốn cẳng lao tọt vào trong cửa! Cu cậu vẫn còn chưa kịp hình dung chuyện gì vừa xảy ra!
A Đẩu cầm chắc chiếc cán chổi, miệng hô lớn, hai mắt lăm thủ thế.
Con sói mẹ giật mình thả rơi miếng bánh bao. Nó nhe hai hàm răng sắc lạnh, hướng đôi mắt ứng đỏ ngầu nhìn về phía A Đẩu rồi lầm lũi quay lưng bỏ đi.
A Đẩu quay lại trách đệ tử:
– Ta đã bảo con bao nhiêu lần rồi? Không được mở cửa sau. Ta nói sao con không chịu nghe vậy?
A Đồng lặng im cúi đầu. Mặt cu cậu xịu xuống, tiu nghỉu.
Sau giờ nhập định, A Đẩu vươn vai bước ra đảo quanh tìm đồ đệ và căn dặn:
– Hiểu phu nhân là người có tâm. Lần sau nếu sư phụ chưa tham thiền, con cứ gọi ta ra giúp bà ấy đảnh lễ. Nhân đây ta dặn con: đầu tuần chay tháng tới, con giúp ta xuống núi mang cho Hiểu phu nhân ít bánh chay của nhà chùa để đáp lễ cúng dường, cũng là ban lộc cho chúng sinh dưới núi.
Thời gian thấm thoắt trôi nhanh. Đã tới đầu tuần chay, vâng lời sư phụ, A Đồng mang rổ bánh chay xuống núi. Trước khi đi A Đẩu căn dặn đồ đệ:
– Xuống tới chân núi, băng qua cánh đồng là tới nhà Hiểu viên ngoại. Con đi một mạch rồi về. Nhớ đừng la cà.
A Đồng dạ ran. Nó hớn hở xách giỏ bánh chạy lon ton xuống núi.
Chiều thu, mặt trời xế bóng, không bước nhanh thì trời tắt nắng. A Đồng men theo con đường rừng nhỏ ngoằn ngoèo, hướng về phía cánh đồng lớn, gió heo may thổi khẽ, thi thoảng đâu đây có tiếng hoãng tác gọi bầy.
A Đồng đang bước nhanh bỗng vấp phải một cành cây nhỏ ngã dúi ngã dụi. Cu cậu bất giác ngẩng nhìn lên và không tin vào mắt mình: ngay bụi cây phía trước, một bầy ‘chó con’ màu xám đang lũn cũn vừa chạy vừa nô nghịch. A Đồng rón chân, bước nhẹ theo…
Trời chạng vạng tối, A Đẩu đang ngồi thiền trong điện bất giác thấy rợn rợn. Ông mở mắt hé nhìn, ba nén nhang trầm đang nghi ngút cháy… bỗng một làn gió thổi qua, tàn nhang gẫy rụng rơi xuống sàn nhà, bụi bay lên tận mũi.
A Đẩu nhìn ra cửa. Đã xẩm tối mà chưa thấy cậu tiểu đệ tử về. Ông bất giác giật mình, vớ cây trường côn dựng ở góc tường chạy thục mạng xuống núi, vừa đi vừa gọi lớn:
– A Đồng… A Đồng!
Khi đi tới chỗ ngoặt cuối con đường nhỏ, A Đẩu nhận thấy có vết chân sói, ông rùng mình cẩn trọng, lăm lăm cây trường côn trong tay. Phấp phỏng lo lắng cho sự an nguy của cậu tiểu đệ tử.
– Chợt nghe trong bụi cây phía trước có tiếng sột soạt, A Đẩu dừng chân lách mình, căng mắt nhìn về phía trước, cây trường côn đã giơ chéo qua đầu… chỉ chờ bổ xuống! Chợt A Đẩu nhận ra cái đầu tròn vo và tấm lưng khom khom nhỏ thó của A Đồng. Nghe tiếng động, tiểu đệ tử của ông cũng giật mình quay lại. Nó tròn xoe mắt nhìn thầy, rồi hỏi với giọng ngạc nhiên và hớn hở:
– Ủa, kỳ vậy ta, sao sư phụ cũng biết là có bầy ‘chó con’ ở đây mà xuống chơi với chúng vậy?
Cậu tiểu tử vẫn chưa hết ngạc nhiên, nó trố mắt nhìn thầy. A Đẩu cũng đứng ngây người, trố mắt nhìn cậu nhỏ A Đồng đang ôm ba con sói con trong lòng mà vuốt ve đùa nghịch… cạnh đó là con chó sói mẹ màu xám đang cúp mắt đăm chiêu nhìn!
Bản chất thơ ngây thánh thiện của một đứa trẻ đã cảm hóa và chiến thắng được bản năng hung tợn và hoang dã của của con thú mẹ. Trong mắt cu cậu tiểu đệ tử chưa vướng chút bụi trần này thì bầy ‘sói con’ hay ‘chó con’ cũng giống nhau cả thôi! Và có lẽ trong mắt sói mẹ thì A Đồng cũng ngây thơ vô hại như chính những đứa con của nó.
A Đẩu trấn tĩnh thu gậy đứng lặng hồi lâu. Ông như cảm thấy bối rối… hình ảnh của cậu bé A Đẩu trong sáng năm xưa đang hiện về trong ông như một thước phim hồi tốc. Bất giác A Đẩu cảm thấy mình nhỏ bé hơn cả cậu tiểu đệ tử của mình.
Có lẽ A Đẩu đã lãng quên mất bản tính tiên thiên trong dòng chảy của thời gian. Đó cũng chính là điều mà trong suốt những năm tháng khổ tu ông miệt mài tìm kiếm. Giờ đây thì ông đã hiểu: bản tính vô tư trong sáng, thuần thiện, thuần chân và bao dung có thể cảm hóa được vạn sự vạn vật. Đó cũng chính là ‘nẻo về’, là con đường hồi thăng cho mọi sinh mệnh.
Đây cũng là lúc A Đẩu nhận ra dùng tâm tĩnh lặng để nhìn thế giới này chính là đại trí tuệ của nhân sinh. Học cách dùng tâm thái đạm nhiên để đối phó với tất cả những niềm vui và nỗi buồn, ung dung vượt qua, không sợ hãi trước vinh nhục, tĩnh nhìn hoa nở hoa tàn, mỉm cười nhìn mây cuộn mây trôi.
Có lẽ, nhìn thấy một vầng trăng sáng, liền cảm thấy một sự dịu dàng, trong lòng bỗng dâng lên một sự bồng bềnh êm ái. Có lẽ, đi qua một góc phố lạ lẫm, nhìn thấy một nụ cười quen thuộc, đột nhiên sẽ nhớ một người. Có thể đó là niềm vui, cũng có thể đó là nỗi buồn.
Thưởng thức sự kiên trì của nước chảy đá mòn, hướng về sự yên tĩnh của trời xanh mây trắng, luôn luôn vững tin, lấy thiện làm gốc, đối xử chân thành với người, không hổ thẹn với đất trời và lương tâm. Có lẽ, chuyện đời khó lường, nhân sinh vô thường, rất nhiều sự tình, phải trải qua rồi mới có thể thấu hiểu; có nhiều giấc mộng, thê lương rồi mới tỉnh táo rõ ràng.
Nhìn thế giới với tấm lòng lương thiện, khắp nơi trên thế gian này đều là cảnh đẹp. Thưởng thức cuộc sống bằng tình yêu bao la, khắp nơi trên thế gian này đều có chân tình!
Tác giả: