Vua Nghiêu lúc nào cũng dốc lòng chăm lo đời sống của nhân dân. Khi có một người đói, ông cho là tại nhà vua nên dân đói, khi có một người rét, ông cho là tại vua nên dân phải rét. Khi có một người phạm tội, ông cho chính là nhà vua không biết dạy dỗ dân nên dân mới sa vào vòng tội lỗi. Vua nhận trách nhiệm của mình đối với nước.
Đó là cách cư xử nhơn từ phúc hậu của Vua Nghiêu nên dân chúng rất cảm mến; đức của ông sáng ngời tỏa rộng khắp mọi nơi, thấm nhuần khắp dân chúng, nên không cần hình phạt răn đe bỏ tù mà dân được sống an bình thạnh trị.
Truyền thuyết kể rằng có người dân phạm lỗi đến trình ông, ông vẽ một vòng tròn bảo đứng tại chỗ, thế mà người dân đó răm rắp tuân theo không dám cãi, cứ đứng yên tại chỗ đó hoài, đến tối ông quên, đi xa sực nhớ lại, ông vội vàng trở lại tha đi và xin lỗi.
Nhà dân cư ở không cần đóng cửa then gài vì không có kẻ trộm cắp, của tiền rơi rớt không ai lượm lấy. Quả thật là một xã hội thánh đức thuần lương.Vua Nghiêu không truyền ngôi cho con là Đan Chu vì ông cho rằng con mình không đủ đức tài, ông chọn ông Thuấn là người tài đức lên thay ông trị vì thiên hạ.
Một lần vua Nghiêu tìm đến núi Vương Ốc, nghe thấy tiếng đọc sách từ trong rừng vọng ra. Lần theo âm thanh đến, ông thấy một căn nhà cỏ ba gian, một đứa trẻ đang đọc sách. Vua Nghiêu thấy sách mà đứa trẻ đang đọc là một bộ kinh điển thuyết giảng về đạo đức, bèn hỏi: “Cháu còn nhỏ tuổi mà cũng đọc được sách cao thâm như thế này à?”.
Đứa trẻ đáp: “Cháu ban đầu cũng không hiểu lắm, sau khi được sư phụ giảng giải thì đã hiểu rõ rồi ạ”.
Vua Nghiêu nói: “Sư phụ của cháu họ tên là gì? Có ở đây không?”.
Đứa bé đáp: “Sư phụ cháu họ Doãn, tên là Thọ, đi hái thuốc chưa về”.
Vua Nghiêu hỏi: “Khi nào trở về?”.
Đứa trẻ đáp: “Rất khó nói, hoặc là một tháng, hoặc là mười mấy ngày”.
Vua Nghiêu thấy trong nhà ba phía chứa đầy sách, đại đa số là sách luận về đạo đức, còn có các sách thiên văn, chiêm tinh, bói toán… Ông nghĩ thầm, Doãn Thọ ắt là ẩn sỹ cao nhân.
Sáng hôm sau, vua Nghiêu bảo tùy tùng chuẩn bị lễ vật, lại đến nhà Doãn Thọ thăm, thấy Doãn Thọ vẫn chưa về. Thấy đứa trẻ vẫn ở đó đọc sách, ông nói với nó rằng: “Trẫm thăm sư phụ của cháu mà chưa được gặp. Hiện giờ do việc gấp, ta phải trở về kinh thành, có chút lễ vật mọn này, nhờ cháu chuyển tới sư phụ cháu. Mùa xuân năm tới, ta lại đến yết kiến”.
Đứa trẻ nói: “Hôm qua cháu đã nghe hàng xóm nói ông là Đương kim Thiên tử, sư phụ cháu xưa nay rất hiếm qua lại với người phú quý, những thứ này cháu không nhận thay được, sợ sư phụ sẽ trách phạt. Ông nói sang năm ông lại đến, sao chẳng tự mình đem đến, bây giờ mời ông về đi”.
Vua Nghiêu đành phải thu lại lễ vật. Tùy tùng nói, đứa trẻ này vô lễ. Vua Nghiêu nói: “Trẫm lại thích sự ngây thơ của nó, nó không biết đến hai chữ ‘danh lợi’ của thế gian, quả không hổ danh đệ tử của ẩn sỹ cao nhân”.
Sau khi hồi kinh, vua Nghiêu nói với quần thần về Doãn Thọ. Hai anh em Hòa Trọng và Hòa Thúc là Lịch quan, nói Doãn Thọ thực sự là bậc thượng sỹ đạo cao, trước đây muốn tiến cử ông ấy, nhưng ông ấy ẩn cư quyết chẳng ra làm quan, do đó đã không tiến cử nữa.
Vua Nghiêu nói: “Trẫm nghĩ, các Thánh đế xưa nay đều cầu học các bậc đại Thánh, như Hoàng Đế học Đại Điên, Chuyên Húc học Lục Đồ, Hoàng Khảo học Xích Tùng Tử. Doãn tiên sinh đạo đức cao siêu, lại ẩn cư núi cao chẳng muốn xuống núi, trẫm sẽ bái tiên sinh làm thầy, đích thân đến thụ giáo. Hai khanh thụ mệnh trẫm đến đó giới thiệu trước, trẫm sẽ đến yết kiến sau”.
Chớp mắt là đông qua xuân về, vua Nghiêu chọn ngày lên đường, cùng anh em Hòa Trọng đến núi Vương Ốc. Từ xa đã thấy ngôi nhà tranh của Doãn Thọ, vua Nghiêu liền dừng xe lại, cùng hai người từ từ đi bộ. Đến bên nhà tranh, chỉ thấy đứa trẻ vẫn ở đó đọc sách. Vua Nghiêu bèn hỏi: “Sư phụ đâu?”.
Đứa trẻ vội chạy vào bẩm báo. Một lát, Doãn Thọ bước ra cảm ơn vua Nghiêu rằng: “Năm ngoái bệ hạ nhọc sức ngự giá mấy lần chiếu cố, đúng lúc thảo dân ra ngoài, không nghênh đón được bệ hạ, thực vô cùng có lỗi. Sau lại được anh em họ Hòa chuyển đạt ý bệ hạ, thảo dân vô cùng lo sợ.
Việc các Thánh vương quay mặt hướng bắc bái sư học đạo, thời cổ xưa quả thực là có, nhưng những bậc làm thầy đó đều là người mà đạo đức và học vấn đều vô cùng trác việt. Còn thảo dân là kẻ thất phu nơi hoang dã như thế này, kiến thức nông cạn, tri thức chẳng có gì, đâu dám làm ‘Thầy của Đế vương’”.
Vua Nghiêu nói: “Đệ tử tầm sư đã lâu, vô cùng ngưỡng mộ tiên sinh, hôm nay đệ tử đến làm lễ bái sư, xin sư phụ đừng từ chối”.
Nói rồi, vua Nghiêu bước xuống dưới, quỳ xuống bái lạy. Doãn Thọ vội vàng đáp lễ. Hòa Trọng đem lễ vật bái sư dâng lên, Doãn Thọ vẫn muốn từ chối. Hòa trọng nói: “Hoàng thượng một lòng chân thành tột bậc, trai giới tắm gội rồi mới đến, xin tiên sinh chớ chối từ nữa”. Doãn Thọ mới đồng ý nhận lời.
Doãn Thọ mời vua Nghiêu và hai anh em Hòa Trọng ngồi xuống, mọi người đàm đạo, nói cả nửa ngày. Doãn Thọ giảng đạo đức và đạo lý trong thiên hạ, vua Nghiêu nghe vô cùng khâm phục. Vua Nghiêu nói: “Đệ tử muốn tìm một vị Thánh nhân để nhường ngôi, cũng muốn tìm mấy người hiền tài để phò tá”.
Doãn Thọ nói: “Theo đức sáng khiêm nhường của vua như thế này, thì đương nhiên sẽ có Thánh nhân xuất hiện, có thể toại nguyện chí vua, thành tựu đức vua, đồng thời có thể làm tấm gương ‘Thiên hạ vi công’ (thiên hạ là của chung mọi người). Nhưng lúc này vẫn chưa đến lúc.
Nói đến các bậc đại hiền tài trong thiên hạ, như Hứa Do đứng ắt ở vị trí chủ, chiếu nghiêng ắt không ngồi, cỗ không đúng lễ ắt không ăn, cả đời hành sự đều theo nghĩa. Thiện Quyển học thức uyên bác, trọng nghĩa khinh lợi. Còn có Sào Phụ, Tử Châu Chi Phụ, Y Bồ Tử, Bị Y, Phương Hồi… đều là những bậc cao nhân đạo đức chân chính. Họ ẩn cư trong núi, không màng cái lợi thế tục”.
Sau này, vua Nghiêu lần lượt đi tìm bái kiến tất cả những cao nhân đạo cao này.
Tác giả: