Theo Quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình quy định về việc trông nom chăm sóc nuôi dưỡng con sau ly hôn như sau:
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định giao cho 1 bên trực tiếp nuôi căn cứ quyền lợi mọi mặt của con, con từ 7 tuổi phải xem xét nguyện vọng.
Theo khoản 2 Điều này, việc xác định người trực tiếp nuôi con khi ly hôn trước hết sẽ do vợ, chồng thoả thuận, trường hợp không thoả thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Nếu con dưới 36 tháng thì trực tiếp giao cho mẹ nuôi. Theo đó thì “quyền lợi về mọi mặt của con” là yếu tố được ưu tiên hàng đầu khi tòa quyết định người trực tiếp nuôi con khi cha mẹ ly hôn.
Hiện nay, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành văn bản hướng dẫn các tiêu chí đánh giá “quyền lợi về mọi mặt của con” và hướng dẫn chi tiết liên quan tới Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Nội dung Điều 6 của Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 như sau:
1. Khi xem xét “quyền lợi về mọi mặt của con” quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình phải đánh giá khách quan, toàn diện các tiêu chí sau đây:
a) Điều kiện, khả năng của cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả năng bảo vệ con khỏi bị xâm hại, bóc lột;
b) Quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp nuôi;
c) Sự gắn bó, thân thiết của con với cha, mẹ;
d) Sự quan tâm của cha, mẹ đối với con;
đ) Bảo đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của con;
e) Nguyện vọng của con được ở cùng với anh, chị, em (nếu có) để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của con;
g) Nguyện vọng của con được sống chung với cha hoặc mẹ.
2. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 Điều 208 của Bộ luật Tố tụng dân sự phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
a) Bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, độ tuổi, mức độ trưởng thành để con có thể bày tỏ đúng và đầy đủ ý kiến của mình;
b) Không lấy ý kiến trước mặt cha, mẹ để tránh gây áp lực tâm lý cho con;
c) Không ép buộc, không gây áp lực, căng thẳng cho con.
3. “Người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình là trường hợp người mẹ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bị bệnh nặng khác mà không thể tự chăm sóc bản thân hoặc không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
Ví dụ: Trường hợp người mẹ bị đột quỵ và liệt nửa người, không còn khả năng đi lại thì Tòa án không giao con dưới 36 tháng tuổi cho người mẹ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
b) Có thu nhập mỗi tháng thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người mẹ đang cư trú và không có tài sản nào khác để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
c) Người mẹ không có điều kiện về thời gian tối thiểu để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
4. Trường hợp điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người cha không tốt hơn điều kiện của người mẹ hướng dẫn tại khoản 3 Điều này thì Tòa án quyết định giao con cho mẹ trực tiếp nuôi.
Như vậy khi giải quyết ly hôn, phân chia quyền nuôi con thì tòa án không chỉ xem xét về kinh tế, công việc của cha hay mẹ mà còn đánh giá toàn diện khách quan các yếu tố như đã nêu ở Điều 81 Luật hôn nhân gia đình và Điều 6 Nghị quyết 01/2024. Thế nên nếu người mẹ (người cha) ở nhà nội trợ thì vẫn có thể giành quyền nuôi con nếu khi toà án xem xét một cách tổng thể, quyền lợi mọi mặt của con sẽ được đảm bảo tốt hơn. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng phù hợp với thu nhập.
Khoản 2 Điều 7 Nghị quyết o1 cũng quy định về mức tiền cấp dưỡng: Tiền cấp dưỡng cho con là toàn bộ chi phí cho việc nuôi dưỡng, học tập của con và do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng do Tòa án quyết định nhưng không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con.
Tác giả: An Nhiên
-
Đất chưa có Sổ đỏ cần lưu ý: Chi phí làm sổ đỏ sẽ tăng rất cao kể cao từ 2026
-
Từ ngày 1/1/2025, đối tượng nào sẽ bị nhà nước thu hồi đất?
-
Từ tháng 12/2024 sẽ tăng gần gấp đôi mức bồi dưỡng với người rà phá bom mìn
-
3 con giáp thoát nghèo, vực dậy vào tháng 11 rơi trúng hố vàng, khối tài sản tăng chóng mặt
-
Những thứ không nên để trong bếp kẻo ảnh hưởng vận may và tài lộc của gia đình