Cha mẹ có lấy lại được đất đã Tặng, cho con hay không?

( PHUNUTODAY ) - Nhiều trường hợp sau khi được tặng, cho đất thì con cái trở mặt, tỏ ra bất hiếu với cha mẹ thì cha mẹ có lấy lại được đất đã Tặng, cho con hay không?

Theo phong tục của người Việt, khi con cái dựng vợ gả chồng rất nhiều gia đình cho, tặng con miếng đất, ngôi nhà hay tiền vàng với mong muốn chúng lập nghiệp thành công. Tuy nhiên, cuộc sống không phải tất cả không như mong đợi, con cái có thể không biết ơn mà lại tỏ ra bất hiếu với những gì cha mẹ đã dốc sức làm cho họ. Trong trường hợp này, liệu cha mẹ có được lấy lại đất đã cho hay không?

Trường hợp con bất hiếu, cha mẹ có được lấy lại đất đã cho hay không?

Nhiều trường hợp sau khi được tặng, cho đất thì con cái trở mặt, tỏ ra bất hiếu với cha mẹ thì cha mẹ cũng không có quyền lấy lại đất đã tặng cho vì những lý do sau đây:

- Các bên tặng cho tự nguyện, không lừa dối, cưỡng ép nên không có căn cứ để Tòa án tuyên vô hiệu.

- Việc tặng cho đã hoàn tất và đã có hiệu lực

Việc tặng cho quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Nghĩa là việc tặng cho đã hoàn tất kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.

Nội dung này được quy định rõ tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013, cụ thể: Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.

Mặc dù đây là quy định có hiệu lực từ ngày 1.7.2014 nhưng Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai trước đó đều thống nhất quy định như trên. Ngoài ra, trong chứng thư pháp lý là giấy chứng nhận (sổ đỏ, sổ hồng) không thể hiện quyền được lấy lại đất sau khi sang tên. Nếu muốn con cái thực hiện đúng nghĩa vụ thì cha mẹ có thể chọn lựa cách cho tăng nhà đất có điều kiện.

Tặng cho đất có điều kiện có đòi lại được không?

Cha, mẹ của người con được tặng cho đất có quyền lấy lại hợp đồng tặng cho đất, nếu sau khi nhận tài sản tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Và nhận lại tài sản đã tặng cho.

Theo Điều 167 Khoản 3 Luật Đất đai 2013, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản kèm theo có quy định quyền sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, đầu tư vào hình thức góp vốn đất đai phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản.

- Trường hợp cha, mẹ tặng cho đất cho con mà hợp đồng không được công chứng, chứng thực thì bị tuyên bố là vô hiệu do vi phạm hình thức theo quy định của pháp luật;

- Bố, mẹ tặng cho đất theo quy định của pháp luật và đủ điều kiện tặng cho, nhưng con cái sau khi nhận tặng cho mà không thực hiện nghĩa vụ nhận di tặng thì bên tặng cho có quyền lấy lại tài sản đã tặng cho. yêu cầu bồi thường thiệt hại;

- Nhà đất do cha mẹ tặng cho đã làm đầy đủ các thủ tục như chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì không được lấy lại trừ trường hợp có hợp đồng tặng cho có điều kiện như: cấp dưỡng, chăm sóc… Cha mẹ và người tặng có quyền khởi kiện để thu hồi tài sản đã tặng cho và yêu cầu bồi thường nếu việc này không được thực hiện đúng.

Bản chất của giao dịch này là một hợp đồng không có đền bù nhưng có kèm theo các điều kiện đối với bên nhận tài sản. Theo đó quyền và nghĩa vụ của các bên trong thỏa thuận tặng cho nhà đất có điều kiện được quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể:

- Bên tặng

Trong giao dịch tặng cho bất động sản có điều kiện, bên tặng cho có quyền yêu cầu bên được tặng cho thực hiện các nghĩa vụ đối với mình theo thỏa thuận trước và sau khi tặng cho nhà, đất. Sau khi tặng cho tài sản, nếu bên tặng cho không thực hiện nghĩa vụ thì có quyền lấy lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

- Bên nhận

Trong giao dịch tặng cho, bên được tặng cho có quyền nhận nhà, đất tặng cho theo hợp đồng. Nếu bên tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với bên tặng cho mà bên tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền yêu cầu bên tặng cho thanh toán một phần nghĩa vụ mà mình đã thực hiện.

Bên được tặng cho cũng có các nghĩa vụ tương ứng đối với bên tặng cho, đó là thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng tặng cho nhà ở. Do đó, nghĩa vụ này có thể được thực hiện trước hoặc sau khi bên tặng cho giao tài sản. Nếu bên tặng cho đã giao tài sản mà bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận thì trả lại tài sản cho bên tặng cho, nếu gây thiệt hại cho bên tặng cho thì phải bồi thường thiệt hại.

Tác giả: Vũ Thêm