Phúc báo là do tu tập hành thiện bố thí mà có được. Chúng ta nếu biết học từ, bi, hi, xả một cách chân chính tức cũng có thể làm bố thí một cách chân chính, từ đó mới có được phúc báo. Bằng không cho dù có được một chút lợi ích nhất thời thì đó cũng là một loại đau khổ, một loại áp lực chứ hoàn toàn không phải phúc báo đích thực, không thể đem đến cho bạn sự an vui đích thực. Phúc báo có được từ sự tu tập chân chính nó là tự nhiên mà đến, trong suốt quá trình phúc báo đều không đem đến cho bạn chút áp lực hay phiền não nào. Phúc báo đến tự nhiên mới là lợi ích bền vững.
Muốn hết bất an, muốn được thanh thản, phương pháp tốt nhất chính là tạo phúc, tự mình gia tăng phúc khí của bản thân. Mà Phật dạy, hành thiện tích phúc, nghiệp lành đời đời. Chăm làm điều thiện, tránh xa điều ác thì không cầu phúc cũng tự đến.
Ra đường gặp người thì hòa nhã, gặp vật thì nhân ái, gặp khó khăn thì giúp đỡ theo sức mình, gặp hoạn nạn thì hết lòng trợ giúp. Người thiện là hành thiện từ tâm, hành thiện không phải được báo đáp mà hành thiện vì bản thân thấy nên làm và cần làm như vậy. Đó là sự hành thiện một cách tự chủ, tự giác và tự nhiên, không cầu được phúc báo nhưng lại nhận được phúc khí tốt lành. Ấy chính là nhân quả nhà Phật, không cần cưỡng cầu cũng tự đến.
Có câu chuyện như sau để chứng mình điều “hành thiện là tích phúc báo cả đời”
Năm Gia Tĩnh đời Minh, ở trấn Thịnh Trạch huyện Ngô Giang tỉnh Giang Tô có một nhà kia chồng tên Thi Phúc, vợ là Du Thị, hai vợ chồng làm nghề nuôi tằm dệt lụa và chưa có con cái gì.
Một hôm, Thi Phúc đi chợ bán lụa, trên đường về nhặt được một cái bọc, mở ra thì thấy hơn sáu lượng bạc trắng. Mừng quá, anh ta nghĩ: “Nếu dùng chỗ này làm vốn, mua thêm một cái khung cửi thì sau mười năm có thể thành phú ông rồi”. Nhưng lại nghĩ: “Của này nếu là người nhà giàu đánh rơi thì chẳng qua cũng chỉ như cái móng tay, nhưng nếu là nhà nghèo như mình thì lại là sự sống của cả nhà!”. Thế là anh ta nhất quyết trả lại số bạc cho người bị mất.
Thi Phúc cứ đứng chỗ đó đợi, đợi rất lâu, cuối cùng thấy một người làm ruộng còn trẻ tuổi hớt hơ hớt hải đi tới. Thi Phúc hỏi thì đúng là người bị mất túi bạc. Người đó cảm ơn rối rít, rồi đưa cho Thi Phúc một nửa số bạc. Thi Phúc nói: “Nếu tôi muốn lấy bạc thì việc gì lại phải đứng đợi mãi ở đây?”. Nói rồi trả lại luôn và vội vàng trở về nhà. Về đến nơi, anh ta kể lại với vợ, Du Thị vui vẻ tán thưởng chồng.
Từ đó, nhà Thi Phúc mỗi năm nuôi tằm đều có dư tiền. Gia cảnh dần dần khá hẳn lên. Trong mấy năm đã tăng thêm được ba bốn cái khung cửi dệt lụa, lại sinh được cậu bé bụ bẫm đặt tên là Quan Bảo.
Năm đó, vào mùa tằm, mới qua ba đợt tằm ngủ mà toàn thôn đã hết cả lá dâu. Nghe nói ở cạnh hồ Động Đình có nhiều lá dâu dư thừa, cả thôn hơn mười hộ bèn chuẩn bị chở thuyền đến mua. Thi Phúc cũng đi.
Thuyền đến bến Than Quyết thì trời gần tối. Mọi người bèn dừng lại nghỉ, chuẩn bị nấu cơm, song không tìm ra lửa đốt. Thi Phúc bèn hăng hái lên bờ đi kiếm.
Lúc này đúng kỳ tằm chín, nhà nuôi tằm rất kiêng người lạ vào nhà, vì thế Thi Phúc gõ cửa nhiều nhà, họ đều không mở. Cuối cùng, tới một nhà mở cửa he hé, có một người đàn bà cho Thi Phúc vào châm lửa. Nói chuyện đôi câu, được biết thì ra chồng của chị là người đánh rơi bạc hồi đó, tên gọi Chu Ân. Thi Phúc và Chu Ân gặp nhau, vô cùng vui mừng. Vợ chồng Chu Ân biết Thi Phúc đi mua lá dâu, bèn đem tất cả số lá dâu còn dư của nhà mình cho hết Thi Phúc. Thi Phúc nghĩ bụng như vậy cũng tốt, khỏi phải đi xa nữa. Thế là đưa lửa về cho mọi người rồi lại đến nhà Chu Ân.
Ngay tối hôm đó, Thi Phúc và Chu Ân bái kết làm anh em. Thi Phúc có con trai hai tuổi, Chu Ân có con gái cũng hai tuổi. Thế là Chu Ân xin kết làm thông gia. Thi Phúc vui mừng nhận lời ngay. Hai người uống rượu đến khuya mới đi nghỉ.
Ngày hôm sau, trời nổi gió to, lại mưa một trận lớn, thế là Thi Phúc lại phải ở lại nhà Chu Ân một ngày nữa. Chu Ân nói: “Cũng là ý trời muốn huynh gặp gỡ đệ. Trời này thì đi thuyền nguy hiểm lắm”. Thi Phúc lại thấy lo cho những người cùng thôn vừa đi với nhau. Sáng sớm hôm sau, lá dâu đã xếp hết lên thuyền, Chu Ân chở Thi Phúc về Thịnh Trạch.
Du Thị thấy chồng trở về, trong lòng như cất được mối lo. Người trong thôn tới tấp đến hỏi thăm tin tức. Thi Phúc nói: “Có lẽ không sao cả đâu”.
Thi Phúc giới thiệu Chu Ân với vợ. Du Thị chuẩn bị đồ ăn rất ngon. Thi Phúc và Chu Ân đang uống rượu bỗng nghe tiếng khóc. Thi Phúc ra hỏi, thì ra hôm trước thuyền bị lật, gần mười người hôm trước đi mua dâu đều bị chết đuối hết. Chỉ có một người ôm được miếng ván thuyền, được những người đánh cá cứu sống, bây giờ về báo tin. Thi Phúc kinh hãi trở lại nói cho Chu Ân và Du Thị biết. Mọi người đều chắp tay tạ ơn trời. Thi Phúc nói: “May mà hiền đệ giữ ở lại, nếu không thì ta cũng khó tránh khỏi nạn này”.
Chu Ân nói: “Đó là do huynh thường làm điều thiện nên được báo ứng chứ có can gì đến đệ”.
Sáng hôm sau Chu Ân trở về nhà. Thi Phúc tiễn ra đến tận ngoài thị trấn rồi mới chia tay.
Năm đó Thi Phúc nuôi tằm được lời gấp mấy lần năm trước. Chàng ta muốn làm thêm mấy cỗ khung cửi dệt lụa, song nhà chật quá không có chỗ đặt. Bấy giờ đúng lúc nhà láng giềng có hai gian phòng nhỏ muốn bán, chàng liền sang giao thiệp. Không ngờ chủ nhà đó thấy có người cần mua bèn cố ý nâng giá lên, rồi lại còn làm cho hai căn phòng lộn xộn lung tung lên.
Thi Phúc mua được rồi, phải sửa chữa lại. Lúc khơi đất để đặt khung cửi, bỗng đào được một hũ bạc, ước khoảng một ngàn lượng, hai vợ chồng vui mừng khôn xiết.
Thi Phúc được thoát khỏi tai nạn, lại được tài sản, từ đó càng chăm chỉ việc hành thiện bố thí, tiếng lành khắp thị trấn. Sau chàng ta lại mua thêm một căn nhà lớn ở gần đó, rồi đặt thêm ba bốn chục khung cửi, thuê mấy người làm công, xây dựng một cơ nghiệp đàng hoàng. Tiếp đến, lại mời thầy về nhà để dạy học cho con trai là Quan Bảo, rồi đổi tên cho Quan Bảo thành Đức Trụ.
Một hôm, nhà Thi Phúc sửa lại gian sảnh đường, đang chuẩn bị đặt xà. Những người làm giúp tranh thủ đi uống rượu. Lúc này chỉ còn một mình Thi Phúc ở lại kê cái chân cột. Chàng ta kê mãi vẫn không sao thẳng được, mới đẩy cái chân cột ra thì thấy bên dưới có một hòm sa thạch hình tam giác, bèn tiện tay quăng ra, không ngờ phía dưới là một đống tướng bạc trắng xóa. Chàng ta vội gọi vợ và con trai lại cùng lấy lên.
Việc đặt xà nhà đã xong, Thi Phúc tiễn đưa mọi người về. Lúc đó có một cụ già tóc bạc đi tới, hỏi Thi Phúc lúc đặt xà nhà có đào được tám đỉnh bạc không? Thi Phúc thành thật nói là có, trong bụng thấy kinh sợ.
Thì ra cụ già này tên là Bạc Hữu Thọ, có mở một quán trà, thường cứ kiếm được ba lượng bạc là lại gộp thành một đĩnh để chuẩn bị dùng khi già lão. Cứ vậy đã qua nhiều năm, tích được tám đĩnh rồi. Không ngờ đêm qua cụ nằm mơ thấy tám đĩnh bạc tới giã từ nói rằng: “Nhà Thi Phúc ở Thịnh Trạch lên xà nhà, những người thân tộc đều đã tới cả, chúng tôi cũng phải tới đó”. Cụ già tỉnh dậy, mở gối ra xem thì thấy tám đĩnh bạc đã không cánh mà bay.
Thi Phúc vội bàn với vợ con, đem tám đĩnh bạc trả lại cho ông cụ. Cụ Bạc nhìn xem thấy đúng số bạc đó, bèn nói: “Đúng là tám vật lạ này đây”.
Thấy Thi Phúc trả lại cho mình, cụ Bạc lắc đầu quầy quậy: “Không được, không được, già này không có phúc để hưởng chúng, bây giờ có đem về cũng không giữ nổi chúng đâu”.
Thi Phúc cũng không cố ép. Từ đó, chàng ta thường xuyên gửi tiền cho ông cụ, xem ông cụ như cha của mình. Khi ông cụ qua đời, Thi Phúc cũng lo liệu hậu sự chu đáo.
Về sau, con trai của Thi Phúc là Thi Đức Trụ lớn lên, lấy con gái của Chu Ân, hai vợ chồng đều rất hiếu thuận, nhà họ Thi trở thành nhà giàu có nhất vùng Thịnh Trạch.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Trang
-
Kiểu người phụ nữ khiến đàn ông “chạy xa cả ngàn mét” không quay đầu lại!
-
Có phước báu thì hãy biết giữ và TÔN TU, đừng vì trước mắt mà tham lam!
-
Đừng hỏi vì sao chồng muốn ngoại tình vì vợ mắc phải những lỗi sau
-
Cách tiêu giải nghiệp chướng – muôn đời thoát khỏi ai oán và bình an suốt cuộc đời!
-
99% đàn ông ngoại tình sẽ làm điều này, vợ nhìn một lần là biết ngay!