Ai là vị vua đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đi tiêm vaccine để phòng bệnh?

( PHUNUTODAY ) - Đây là vị vua từng đi Tây du học, có tư tưởng hiện đại và cũng là vị vua đầu tiên tiêm vaccine để phòng bệnh.

Trong các vị vua nhà Nguyễn, vua Bảo Đại được biết đến là vị vua đậm chất Tây. Điều ấy dễ hiểu khi ngay từ nhỏ, Hoàng Thái tử Vĩnh Thụy đã được vua cha Khải Định gửi gắm sang nước Pháp để đào tạo trở thành một vị vua tương lai. Vua Bảo Đại ham săn bắn, ông thích thú một con chó săn. Tuy nhiên con chó này đổ bệnh chết vì bệnh dại. Dù không bị chó cắn nhưng do hay vuốt ve con vật cưng, nên để phòng xa, Vua Bảo Đại đã phải tiêm phòng dại.

Năm 1933, vua Bảo Đại đi tiêm vaccine để phòng bệnh, và đấng quân vương tỏ ra rất tự giác trong vấn đề này để bảo vệ sức khỏe bản thân.

Làm vua từ tuổi 13

Năm 1766 chúa Nguyễn Phúc Luân tức Hưng tổ Hiếu Khương Hoàng đế từ trần, khi đó người con thứ ba của ông là Nguyễn Phúc Ánh mới 4 tuổi đã theo người chú là Nguyễn Phúc Thuần tức Duệ Tôn vào Nam. Khi Phúc Ánh trưởng thành được Duệ Tôn cho làm Chưởng sứ Tướng Tả Dự Quân. Đến khi Duệ Tôn tử trận, Phúc Ánh được phong làm Đại Nguyên soái kế vị Duệ Tôn.

Năm 1802, ông lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Gia Long và từ đó cha truyền con nối cho tới Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy tức vua Bảo Đại là đời thứ 13 triều Nguyễn. Vĩnh Thụy lên ngôi từ năm 13 tuổi kế vị vua Khải Định, ngự trị ngai vàng 19 năm, cho đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công.

Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22/10/1913, khi 9 tuổi đã được Khâm sứ Huế là Charles nhận làm con nuôi và đưa sang Pháp học “nghề làm vua” tại trường chuyên ngành khoa học chính trị Lycée Condoreet puis Sciences Politique ở Paris. Cuối năm 1925, vua Khải Định băng hà, ngày 8-1-1926 triều đình tôn Vĩnh Thụy lên ngôi.

Sau khi làm lễ đăng quang và an táng vua cha, Bảo Đại trở lại Pháp tiếp tục học tập, còn mọi việc trong nước giao cho Hội đồng Phụ Chánh, do quan Đại thần Nguyễn Hữu Bài đứng đầu, điều hành. Tuy nhiên, trên thực tế mọi việc đều do người Pháp sắp đặt và cai trị, còn chính phủ Nam triều chỉ đóng vai trò thừa hành.

Từ giữa những năm 20 trở đi, ở nước ta nhiều đảng ái quốc ra đời, lập chiến khu, dấy lên các phong trào chống thực dân Pháp. Trước tình thế đó, vào mùa hè năm 1932, Pháp buộc phải đưa Bảo Đại về nước với hy vọng ông đã học xong trường cao đẳng chính trị, vị vua trẻ mang phong cách và văn minh Phương Tây về nước có thể thu phục được các tầng lớp thanh niên, nhất là đội ngũ trí thức, làm nguội dần các phong trào chống Pháp.

Đầu tháng 9/1932 về tới Huế, ngay lập tức Bảo Đại ra mắt quần thần, ngỏ lời cùng quốc dân, đưa ra nhiều lời hứa, mong muốn cải cách, xây dựng một đất nước văn minh. Quả thực, sau 10 năm ăn học ở Pháp, tiếp thu lối sống Phương Tây, Bảo Đại đã cho bỏ những tập tục, lễ nghi cổ truyền mà các vua cha bày ra. Trước hết ông ban sắc dụ từ nay Hoàng thượng tới đâu, thần dân không phải quỳ lạy, có thể ngẩng đầu chiêm ngưỡng long nhan đức vua mà không sợ phạm thượng, các quan cũng không phải quỳ lạy mỗi khi vào chầu.

Làm như vậy thực ra Bảo Đại nhằm tới hai mục đích: Thứ nhất, để tỏ ra là một nhà vua tiến bộ, bình dân, tôn trọng những người lớn tuổi đáng bậc cha chú, nếu cứ bắt họ phủ phục mỗi khi vào chầu thật khó coi. Thứ hai, nhân dịp này để các quan Tây vào chầu cũng khỏi phải chắp tay xá lạy, mà chỉ cần bắt tay tỏ ý thân thiện theo kiểu Phương Tây.

Tiếp theo, Bảo Đại cải tổ bộ máy hành chính, cho các vị thượng thư già yếu hoặc kém năng lực về hưu. Chẳng hạn như Nguyễn Hữu Bài đã làm thượng thư quá lâu, lại có tư tưởng bài Pháp, nên được nghỉ trước tiên. Đồng thời sắc phong thêm 4 thượng thư mới lựa chọn trong giới hành chính và học giả. Về sau ông còn lập thêm một số bộ và thành lập Viện Dân biểu để trình bày nguyện vọng của dân chúng lên nhà vua và Chính phủ Pháp.

Nhà vua cũng cho phép Hội đồng Tư vấn Bắc kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính phủ bảo hộ. Trong khi đó Bảo Đại tiến hành các cuộc ngự du, trước hết là bái yết vong linh tiên đế nhà Nguyễn, về Thanh Hoá vinh qui bái tổ, thăm Hà Nội, Sài Gòn, Tây Nguyên và các địa phương khác để nắm được nguyện vọng của thần dân… Có lẽ vì vậy thời đó người ta coi Bảo Đại là “Nhà vua cải cách”.

Cuộc gặp gỡ với Nam Phương Hoàng Hậu

Nam Phương Hoàng hậu có tên húy là Nguyễn Hữu Thị Lan, xuất thân trong một gia đình rất giàu có. Sau này, bà đi du học ở Pháp. Vua Bảo Đại tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Ông là con trai duy nhất của Hoàng đế Khải Định và cũng được gửi đi du học ở Pháp từ khi còn bé. Có lẽ cùng chung sự am hiểu về văn hóa Tây phương mà trong một buổi dạ tiệc ở Đà Lạt, hai người đã gặp và cảm mến nhau. Tuy vậy, cũng có những thông tin cho rằng trước khi có cuộc gặp gỡ ấy, Nguyễn Hữu Thị Lan đã từng gặp Bảo Đại ở con tàu từ Pháp về Việt Nam năm 1932.

Những ngày nghỉ dưỡng tại Đà Lạt, Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan cùng chơi quần vợt, trò chuyện qua lại. Chỉ nhờ vài ngày gặp mặt, họ đã nảy sinh tình cảm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nghi ngờ rằng cuộc gặp này có sự sắp xếp để chuẩn bị cho một cuộc hôn nhân. Nói về Nguyễn Hữu Thị Lan, Bảo Đại từng tâm sự: “Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng”. Đám cưới của họ được tổ chức vào ngày 20/3/1934 tại điện Kiến Trung.

Nhận được lời cầu hôn từ nhà vua, gia đình bà Nguyễn Hữu Thị Lan đồng ý có điều kiện. Đòi hỏi của nhà gái, Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng hậu Chánh cung ngay trong ngày cưới. Điều này đã làm cho các quan trong triều không hài lòng bởi trong 13 triều vua nhà Nguyễn chỉ mới có 2 trường hợp được phong hoàng hậu khi còn sống. Thêm vào đó - một điều kiện khác - bà Lan được phép giữ đạo Công giáo và sau này các con phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo. Bảo đại bất chấp tất cả để lấy bằng được Nguyễn Hữu Thị Lan.

Vua đã từ chối cuộc hôn nhân do mẹ là thái hậu Từ Cung chọn cho. Người được mẹ chọn cho vua là con của một vị phó bảng quê ở Phong Điền (Thừa Thiên) đã chuẩn bị mọi thứ để tiến cung. Thái hậu Từ Cung rất buồn khi ý định của mình bị nhà vua bác bỏ. Cả triều đình như đang dậy sóng. Thế nhưng, mọi toan tính đều thất bại trước sự kiên quyết của Bảo Đại. Ông khẳng định với mẹ, nếu không lấy được Thị Lan ông sẽ độc thân suốt đời. Ngày 20/3/1934 hôn lễ được cử hành tại Huế. Bốn ngày sau, lễ tấn phong hoàng hậu diễn ra rất trọng thể tại điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Nguyễn Hữu Thị Lan tước Nam Phương hoàng hậu.

Bà sinh cho vua Bảo Đại 5 người con gồm hoàng thái tử Bảo Long, công chúa Phương Mai, Phương Dung, Phương Liên và hoàng tử Bảo Thăng. Sau khi vua Bảo Đại thoái vị năm 1945, hoàng hậu Nam Phương cùng dọn ra cung An Định, bên bờ sông An Cựu sống. Rời bỏ cuộc sống giàu sang của một bà hoàng, bà dốc sức nuôi dạy các con, tham gia góp vàng bạc, vận động người dân Huế gây quỹ cho chính quyền mới.

Khi được tin bà Nam Phương tạ thế, Bảo Đại trở về ngay và đã mua một chiếc quan tài bằng gỗ sồi, loại gỗ quý giá nhất của người Pháp để an táng người vợ hiền thục, nhân từ và đạo đức mà cho tới tận cuối đời cũng không hề bị ai chê trách hay than phiền.

Ngay cả ông Bảo Đại cũng chưa bao giờ dám trách vợ về việc trai gái, vì kể từ ngày ly thân với Bảo Đại, bà Nam Phương không có bất kỳ nhân tình nào, dù là đi khiêu vũ hay đi tắm biển với một người đàn ông khác cũng không. Có lẽ bà Nam Phương được sinh ra trong một gia đình nề nếp nên bà giữ đạo rất nghiêm khắc, ngay cả với các con. Linh cữu của bà Nam Phương được an táng ngay nghĩa trang Công giáo tại Chabrignac. Trên mộ của bà có tấm bia ghi những dòng chữ: Ici Repose l’Imperatrice Nam Phuong Nee Jeanne Mariette Nguyen Huu Hao 14/11/1913 – 15/9/1963. Và mặt sau bia mộ có viết dòng chữ Hán: “Đại Nam Nam Phương Hoàng hậu chi lăng.

Tác giả: Thạch Thảo