Mức lương tối thiểu vùng hiện nay là bao nhiêu?
Quy định Điều 91 Bộ luật Lao động 2019 có giải thích về mức lương tối thiểu như sau:
Mức lương tối thiểu
1. Mức lương tối thiểu là mức lương thấp nhất được trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội...
Căn cứ khoản 1 Điều 3 Nghị định 38/2022/NĐ-CP quy định về mức lương tối thiểu vùng như sau:
Mức lương tối thiểu
1. Quy định mức lương tối thiểu tháng và mức lương tối thiểu giờ đối với người lao động làm việc cho người sử dụng lao động theo vùng như sau:
2. Danh mục địa bàn vùng I, vùng II, vùng III, vùng IV được quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này.
Như vậy, mức lương tối thiểu có thể coi là mức lương tối thấp mà người lao động có thể nhận được khi thực hiện công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động thông thường và không được thấp hơn mức lương quy định như trên.
Mức lương tối thiểu vùng đã thay đổi qua bao nhiêu lần?
Năm 2013, Hội đồng lao động tiền lương được thành lập. Từ năm 2014 đến nay, qua 8 lần điều chỉnh, lương tối thiểu vùng đã tăng trên 72%, góp phần cải thiện đời sống đoàn viên, NLĐ, thu hẹp khoảng cách giữa tiền LTT và mức sống tối thiểu. Cụ thể từng mức tăng như sau:
- Năm 2014 tăng 15,2%;
- Năm 2015 tăng 14,2%;
- Năm 2016 tăng 12,4%;
- Năm 2017 tăng 7,3%;
- Năm 2018 tăng 6,5%;
- Năm 2019 tăng 5,3%;
- Năm 2020 đến hết tháng 6-2022 tăng 5,5%;
- Từ tháng 7- 2022 đến nay tăng 6%.
Đề xuất tăng lương tối thiểu vùng 2024 lên bao nhiêu?
Mới đây, ngày 9/8, Hội đồng Tiền lương quốc gia bước vào phiên họp chính thức đầu tiên thảo luận phương án lương tối thiểu vùng năm 2024.
Thành viên chủ chốt của hội đồng gồm lãnh đạo Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI), Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
Kết quả khảo sát do Viện Công nhân và công đoàn (Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam) thực hiện mới đây từ gần 3.000 lao động thuộc sáu tỉnh, thành cả nước, công bố ngày 8-8, cho thấy: Thu nhập của người lao động (NLĐ) cao hơn mức lương tối thiểu vùng nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu chi tiêu, chăm sóc con cái...
Theo khảo sát, chỉ 24,5% NLĐ cho biết tiền lương và thu nhập vừa đủ đáp ứng 100% chi tiêu cho cuộc sống. 75,5% còn lại trả lời thu nhập hiện tại không đáp ứng đủ nhu cầu chi tiêu. Thậm chí có người nhận mức lương chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu chi tiêu.
Chỉ có 8,1% NLĐ có tích lũy từ tiền lương và thu nhập; 11,2% không thể đủ sống và ngoài thời gian làm việc tại DN phải làm thêm việc khác để kiếm thêm thu nhập.
Trong đó, 17,3% NLĐ phải thường xuyên vay nợ dẫn đến 3,1% NLĐ thường xuyên bị đe dọa, khủng bố và 45,2% người vay nợ có tâm trạng lo lắng bất an.
Bởi vì không có tích lũy, nhiều NLĐ khi gặp khó khăn phải rút bảo hiểm xã hội một lần. 12,3% NLĐ từng rút một lần, số lần rút trung bình là 1,13 lần, trong đó người rút nhiều nhất là 4 lần.
Ngoài ra, NLĐ phải dùng 23,6% tiền lương và 17,9% thu nhập hàng tháng để trả tiền thuê nhà (trung bình hơn 1,8 triệu đồng).
Tiền lương cũng được coi là nguyên nhân chính ảnh hưởng quyết định lập gia đình của 53,7% và quyết định có con của 72% NLĐ. Có 17,6% NLĐ không sống cùng con dưới 18 tuổi vì lý do tiền lương thấp và 2,2% NLĐ chưa từng mua sữa công thức cho con dưới 6 tuổi.
Trong khi đó, chỉ có 37,7% NLĐ có tiền lương đảm bảo nhu cầu học tập của con.
Về tác động đến dinh dưỡng hàng ngày, chỉ có 26,2% NLĐ có điều kiện để ăn thịt, cá trong các bữa ăn hàng ngày; 10,3% NLĐ tham gia khảo sát cho biết với thu nhập hiện nay họ ít khi (1 lần/tuần) có điều kiện để ăn thịt, cá trong bữa ăn gia đình.
Có tới 46,5% NLĐ chỉ đủ tiền để mua một số loại thuốc cơ bản chữa bệnh và còn tới 6,3% cho biết thu nhập hiện tại hoàn toàn không đủ mua thuốc và khám chữa bệnh; 6,5% NLĐ trả lời khi bệnh vẫn đi làm bình thường, để bệnh tự khỏi; 2,2% người lao động chưa từng mua sữa công thức cho con dưới 6 tuổi.
Do vậy, để đảm bảo mức sống tối thiểu cho NLĐ và gia đình, các công đoàn cơ sở kiến nghị cần điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu vùng năm 2024 với đề xuất là 11,34%. Thời điểm điều chỉnh cần cân nhắc để phù hợp, giảm thiểu các tác động đến NLĐ và doanh nghiệp.
Gần đây nhất, Hội đồng Tiền lương quốc gia đã thống nhất tăng lương tối thiểu vùng 6% từ 1-7-2022.
Cụ thể, vùng I tăng 260.000 đồng, từ 4,42 triệu đồng/tháng lên 4,68 triệu đồng/tháng. Vùng II tăng 240.000 đồng, từ 3,92 triệu đồng/tháng lên 4,16 triệu đồng/tháng. Vùng III tăng 210.000 đồng, từ 3,43 triệu đồng/tháng lên 3,64 triệu đồng/tháng. Vùng IV tăng 180.000 đồng, từ 3,07 triệu đồng/tháng lên 3,25 triệu đồng/tháng.
Tác giả: Vũ Ngọc