Theo tác phẩm "Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim, Nguyễn Phúc Ưng Chân (1852 - 1883), hay còn được biết đến với tên gọi Nguyễn Phúc Ưng Ái, là con trai thứ hai của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga.
Vì vua Tự Đức mắc phải bệnh đậu mùa trong thời thơ ấu và không có con cái, ngài đã quyết định nhận con nuôi từ các anh em ruột. Năm 1869, Ưng Ái được vua Tự Đức nhận nuôi và đặt cho tên tự là Ưng Chân, sau đó giao cho Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên chăm sóc và giáo dục tại Dục Đức đường.
Tên gọi Dục Đức chính là cách gọi tắt của Ưng Chân trong thời gian cư trú tại Dục Đức Đường.
Không được vua Tự Đức yêu mến
Người con nuôi của vua Tự Đức, Dục Đức, không nhận được sự yêu mến từ vị vua này. Năm 1883, Dục Đức được công nhận với chức danh Thụy Quốc công. Tuy nhiên, khi vua Tự Đức lâm bệnh vào tháng 7 cùng năm, ngài đã truyền ngôi cho Dục Đức qua di chiếu, đồng thời giao trách nhiệm phò tá cho các Phụ chính đại thần như Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, và Tôn Thất Thuyết.
Trước đó, vua Tự Đức cũng từng cân nhắc việc nâng một người con nuôi khác, Ưng Đăng, lên ngôi, nhưng thấy rằng Ưng Đăng còn quá trẻ để gánh vác trọng trách Quốc vương. Trong khi đó, Dục Đức thường xuyên bị vua quở trách và tìm ra lý do để chỉ trích.
Theo cuốn sách "Chuyện ba vua Tự Đức - Thành Thái - Duy Tân" của Nguyễn Đắc Xuân, nội dung di chiếu của vua có đoạn phê bình về phẩm hạnh của Dục Đức: "... Ưng Chân, mặc dù đã lớn tuổi và có thời gian học hành, nhưng lại có một số khiếm khuyết về thị lực và có xu hướng tính cách không tốt như hiếu sắc. Vì tình hình đất nước ở thời điểm khó khăn, nếu không dùng Ưng Chân thì còn ai khác có thể thay thế được?".
Khi các quan Phụ chính đọc di chiếu, họ đã đề xuất loại bỏ những phần liên quan đến tính xấu của Dục Đức, nhưng vua Tự Đức đã từ chối. Ngài cho rằng những điều này là cần thiết để con nuôi có thể tự nhận thức và cải thiện bản thân.
Ngày 19 tháng 7 năm 1883, vua Tự Đức qua đời. Dục Đức đã bày tỏ nỗi đau thương và kính trọng trước di chiếu ở điện Cần Chánh, rồi chính thức bước vào quá trình tang lễ tại điện Hoàng Phước.
Sự sụp đổ của Dục Đức chỉ sau 3 ngày
Sau sự ra đi của vua Tự Đức, Dục Đức – người được kế vị – đã nhanh chóng phải đối mặt với sự không ủng hộ từ hai đại thần quyền lực Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Ngay khi lên ngôi, Dục Đức đã triệu tập các quan lại tại điện Quang Minh để đề nghị xóa bỏ những phần trong di chiếu của Tự Đức mà không có lợi cho bản thân.
Theo các quan, mặc dù đã nhằm mục đích chỉnh sửa, nhưng Tự Đức đã từ chối yêu cầu này. Dục Đức, không chịu khuất phục, yêu cầu các quan tìm cách khác để "tránh ảnh hưởng xấu đến việc triều chính".
Theo ghi chép trong "Đại Nam thực lục", một phần đáng chú ý là Dục Đức mắc chứng tật về mắt và từng có những khuyết điểm không tốt đã được nhắc đến trong di chiếu. Khi lễ đăng quang diễn ra, ông đã chỉ thị cho viên quan Trần Tiễn Thành bỏ qua một số đoạn không mấy tốt đẹp về mình. Mặc dù Trần Tiễn Thành đã cố gắng lướt qua các phần này khi đọc di chiếu, nhưng đã bị hai đại thần phát hiện.
Sau lễ phong, Trần Tiễn Thành bị cáo buộc đã làm sai lệch nội dung di chiếu, điều này đưa đến việc hai đại thần báo cáo lên Thái hậu Từ Dụ, yêu cầu xử lý sai phạm của Dục Đức. Dưới áp lực từ Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, Thái hậu đã buộc phải đồng ý phế truất Dục Đức.
Chỉ sau ba ngày trị vì và chưa từng đặt niên hiệu, Dục Đức đã bị gán ghép tội lỗi nặng nề. Ông bị quản thúc tại Dục Đức Đường, sau đó bị giam giữ tại Thái Y Viện cho tới khi qua đời vì đói khát tại Ngục Thất Thừa Thiên. Vào ngày 6 tháng 10 năm 1883, ông ra đi ở tuổi 32, để lại sau lưng tám bà vợ và 19 người con.
Một số tài liệu như "Kể chuyện chín chúa mười ba vua triều Nguyễn" cho biết Dục Đức đã tuyệt thực dẫn đến cái chết. Thi hài của ông được an táng tại cánh đồng ở Tứ Tây, xã An Cựu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Vào năm 1886, dưới triều đại của vua Đồng Khánh, Dục Đức được truy phong là Thụy Nguyên quận vương, với mỹ hiệu Trang Cung. Sau này, khi con trai của Dục Đức – Bửu Lân – lên ngôi (vua Thành Thái), ông đã cho dựng miếu Hoàng khảo để tôn vinh cha mình. Đến năm 1892, vua Thành Thái truy tôn cha thành Cung Huệ Hoàng đế và xây lăng An Lăng cho ông, tiếp theo là việc truy thụy thành Khoan Nhân Duệ Triết Tĩnh Minh Huệ Hoàng đế vào năm 1901.
Tác giả: Trần Thu Thủy
-
Chuyện tình cổ tích giữa vua Lê Thánh Tông và nàng gánh nước xứ Thuận Hóa
-
Vị vua Việt Nam duy nhất hai lần lên ngôi, cả 4 con trai đều làm vua, còn cưới vợ hơn 13 tuổi
-
Vị vua trị vì lâu nhất Việt Nam: 56 năm ngự trị và những dấu ấn lịch sử
-
Chưa 1 ngày làm vua nhưng ông có 3 người con, 2 người cháu từng giữ ngai vàng: Ông là ai?
-
Vị vua Việt nào từng cởi hoàng bào đắp cho thủ cấp tướng địch?