Chưa 1 ngày làm vua nhưng ông có 3 người con, 2 người cháu từng giữ ngai vàng: Ông là ai?

20:49, Thứ sáu 29/03/2024

( PHUNUTODAY ) - Triều đại nhà Nguyễn tồn tại qua 13 đời vua, trong đó có tới 5 vị vua đều là con và cháu của người đàn ông này.

Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876), mang tôn hiệu Kiên Thái Vương, là một hoàng tử của vua Thiệu Trị, đánh dấu bản thân trong lịch sử Việt Nam không chỉ với vai trò là cha của ba vị vua liên tiếp mà còn là ông nội và cụ của các hoàng đế sau này.

Theo nguồn từ trang web chính thức của dòng họ Nguyễn Phúc (nguyenphuoctoc.info), Hồng Cai là cha của ba hoàng đế triều Nguyễn: Kiến Phúc (tức Nguyễn Phúc Ưng Đăng), Hàm Nghi (tức Nguyễn Phúc Ưng Lịch) và Đồng Khánh (tức Nguyễn Phúc Ưng Kỷ). Ông cũng là tổ phụ của vua Khải Định và cố tổ phụ của vua Bảo Đại. Hồng Cai được mô tả là người đức độ, tiết kiệm và tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc. Từ nhỏ, ông đã siêng năng học tập và sau đó tiếp tục việc học cùng với các vương công khác khi sống riêng tại phủ của mình, nắm vững rộng rãi các sách kinh sử.

Lăng mộ của ông Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876)

Lăng mộ của ông Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876)

Các sử sách ghi chép, vua Tự Đức (tên thật là Hồng Nhậm) không có con nối dõi do bị bệnh đậu mùa từ nhỏ. Sau khi lên ngôi, ông nhận nuôi 3 người con của hai em trai ruột mình, trong đó Ưng Chân, con của Thoại Thái Vương, được xem là người thừa kế. Năm 1883, vua Tự Đức qua đời, Ưng Chân tiếp tục ngôi vua với niên hiệu Dục Đức theo di chiếu của Tự Đức, nhưng chỉ sau ba ngày thì băng hà. Sau đó, em út của Tự Đức là Hồng Dật được lên ngôi, niên hiệu là Hiệp Hòa, nhưng cũng không giữ được ngôi lâu. Cuối cùng, các quan phụ chính thời bấy giờ là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã quyết định đưa Ưng Đăng, người con nuôi thứ ba của Tự Đức, lên ngôi, với niên hiệu Kiến Phúc.

Ưng Đăng và Ưng Đường đều là những người con của Kiên Thái Vương, Nguyễn Phúc Hồng Cai, sinh thời đã chứng kiến giai đoạn đầy biến động của đất nước. Đặc biệt, giai đoạn lịch sử được biết đến với cái tên “Tứ nguyệt tam vương”, chỉ quãng thời gian bốn tháng liên tiếp chứng kiến sự thay đổi của ba vị vua - Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc - mỗi người chỉ kịp ngồi lên ngôi vàng trong thời gian ngắn.

Vua Kiến Phúc

Vua Kiến Phúc

Kiến Phúc, sau tám tháng trị vì, đột ngột băng hà trong hoàn cảnh đầy rẫy ẩn số. Hai quan Phụ chính là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường sau đó đã quyết định đưa Ưng Lịch, em cùng cha khác mẹ với Ưng Đường và Ưng Đăng, lên ngôi với danh hiệu Hàm Nghi vào ngày 2 tháng 8 năm 1884. Khi triều đình suy yếu sau ngày kinh thành bị đánh sập (23/5 âm lịch, tức 5/7/1885 dương lịch), Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi vào vùng núi tổ chức kháng chiến chống Pháp, cùng với Thọ Xuân Vương Miên Định, chú ruột của vua Tự Đức, làm quyền nhiếp chính. Đến tháng 9 năm 1885, theo sự kiến nghị của các quan Đại thần và Thái hoàng Thái hậu Từ Dũ, Chính phủ Pháp đã chấp nhận cho Ưng Đường kế nghiệp ngai vàng, với niên hiệu là Đồng Khánh.

Sau khi vua Đồng Khánh mất, ngai vàng được truyền lại cho Hoàng tử Bửu Lân, con trai của vua Dục Đức. Bửu Lân được đăng quang với niên hiệu Thành Thái và trị vì cho đến năm 1908, thời điểm ông bị Pháp lật đổ. Ngai vàng sau đó thuộc về con ông, Vĩnh San, với niên hiệu Duy Tân. Đến năm 1916, sau cuộc nổi dậy không thành công do Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo, vua Duy Tân bị Pháp bắt và đày đi xa. Ngôi vua tiếp tục quay về với dòng họ của vua Đồng Khánh. Hoàng tử Bửu Đảo lên nắm quyền, với danh hiệu Khải Định từ năm 1916 đến 1925, và sau đó là hoàng tử Vĩnh Thụy, lên ngôi với niên hiệu Bảo Đại từ năm 1926 đến 1945.

Vua Đồng Khánh

Vua Đồng Khánh

Câu ca dao ở Huế phản ánh điều này: "Một nhà sinh đặng ba vua/ Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài", mô tả hoàn cảnh hi hữu của gia đình Kiên Thái Vương, với ba người con trai lần lượt nối ngôi vua. Trong đó, "vua còn" ám chỉ Đồng Khánh, "vua mất" nói về Kiến Phúc, và "vua thua chạy dài" đề cập đến Hàm Nghi.

chia sẻ bài viết
Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn copy link
Tác giả: Trần Thu Thủy