Vua Lê Thần Tông (1607-1662), với tên thật là Lê Duy Kỳ, là vị quân vương thứ 17 trong triều đại Hậu Lê. Ông là con trai đầu lòng của vua Lê Kính Tông và đã lên ngôi trị vì vào năm 1619 khi còn rất trẻ, chỉ mới 12 tuổi.
Theo tài liệu trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, ông được mô tả là người có sống mũi thẳng, gương mặt kiểu rồng, vô cùng thông minh và có kiến thức phong phú. Vua cũng nổi bật với khả năng mưu lược sâu sắc và tài năng văn chương xuất chúng, được ca ngợi là một vị vua vĩ đại.
Khi Lê Thần Tông ra đời, triều đình nhà Lê chỉ còn mang tính danh nghĩa; quyền lực thực tế tại Đàng Ngoài thuộc về họ Trịnh, trong khi Đàng Trong do chúa Nguyễn kiểm soát.
Ông trị vì trong 24 năm trước khi nhường ngai vàng cho con trai 13 tuổi, Lê Duy Hựu, được biết đến với hiệu là Chân Tông, và trở thành Thái thượng hoàng. Tuy nhiên, chỉ sau 7 năm tại vị, Lê Chân Tông qua đời do bệnh tật, khiến Thái thượng hoàng lại đảm nhận vai trò vua.
Lê Thần Tông tiếp tục làm vua thêm 13 năm nữa, cho đến khi ông qua đời vào năm 1662 và được an táng tại Ngọc Long, xã Quần Lai, huyện Dương Lôi (hiện nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).
Người kế vị ông là con trai thứ, Lê Duy Vũ (hiệu là Huyền Tông), nhưng sau 9 năm trị vì, ông cũng qua đời vì bệnh tật. Tiếp theo, con trai khác của Thần Tông, Lê Duy Hợi (hiệu là Gia Tông), cũng không trụ lâu với ngai vàng, chỉ 4 năm trước khi mất vì bệnh. Cuối cùng, con út của Lê Thần Tông, Lê Duy Hợp (hiệu là Hy Tông), tiếp quản ngai vàng và là người trị vì lâu nhất, kéo dài tới 30 năm.
Theo các nhà nghiên cứu, Lê Duy Kỳ là vua duy nhất trong lịch sử 108 vị vua chúa của 15 triều đại phong kiến Việt Nam đã lên ngai vàng hai lần với 7 triều đại khác nhau. Ông có tổng cộng 10 người con, trong đó 4 con trai đều lên làm vua.
Ngoài ra, Lê Thần Tông còn thiết lập một kỷ lục đặc biệt khi trở thành vua đầu tiên của Việt Nam kết hôn với phụ nữ phương Tây, cũng như có nhiều vợ là người thuộc các dân tộc khác nhau. Trong số 6 vợ của ông, có 4 người là người ngoại quốc.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ tục biên, quyển 18) ghi nhận: "Vua đã lấy Trịnh Thị Ngọc Trúc, con gái của Trịnh Tráng (lúc bấy giờ được phong là Thanh Đô Vương) làm Hoàng hậu. Trước đây, Ngọc Trúc đã kết hôn với Cường Quận công Lê Trụ, và hai người đã có với nhau bốn người con. Khi đó, Lê Trụ đang bị giam trong ngục, Trịnh Tráng đã quyết định gả con gái mình cho vua, và vua đã nhận cô vào cung".
Khi kết hôn, vua Lê Thần Tông mới 23 tuổi thì Trịnh Thị Ngọc Trúc đã 36, lớn hơn vua 13 tuổi.
Ngoài Hoàng hậu Ngọc Trúc, Lê Thần Tông cũng có thêm một số bà vợ người nước ngoài. Tổng cộng, vua có 6 người vợ: bên cạnh Hoàng hậu Ngọc Trúc và một phi tần người Mường, có các phi tần đến từ các quốc gia như Thái Lan, Trung Quốc, Lào và Hà Lan.
Đặc biệt, người vợ thứ 6 của vua, tên là Orona, là bà hoàng người châu Âu đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Trong cuốn Tường trình về Đàng Ngoài (Historie du Royaume de Tunquin), linh mục Pháp Alexandre de Rhodes đã ghi lại nhiều ghi chép liên quan đến thời kỳ Lê - Trịnh, trong đó có nhắc đến Orona là cung phi của Lê Thần Tông.
Cuốn sách cũng cho biết vương triều Đàng Ngoài đã nhờ cậy các thương gia Hà Lan, lúc đó đang chiếm đóng Java (Indonesia), để cung cấp một số tàu tròn nhằm phục vụ cho mục đích đánh chiếm Đàng Trong.
Vào những năm 1920, nhà sử học Charles Robequin trong cuốn Le Thanh Hoa đã nhấn mạnh rằng ông Lê Duy Kỳ là người Việt Nam đầu tiên lấy vợ là người châu Âu.
Theo tài liệu, Orona, vợ Hà Lan của vua, là con gái của Phó Toàn quyền Hà Lan tại Đài Loan. Năm 1630, trong chuyến viễn chinh đến Việt Nam, bà đã được gặp vua Lê Thần Tông ở Thăng Long. Nghe theo lời khuyên của cha, bà đã quyết định ở lại và trở thành vương phi của nhà vua.
Tất cả 6 người vợ của vua sống hòa thuận bên nhau. Có truyền thuyết cho rằng 6 pho tượng thờ của các bà vợ vua Lê Thần Tông ở chùa Mật Sơn (Thanh Hóa) được dựng lên từ tấm lòng, công sức của cả 6 người, với ước muốn được bên nhau mãi mãi.