Từ 2023: Những trường hợp được lập di chúc miệng, di chúc miệng hợp pháp khi nào?

( PHUNUTODAY ) - Dưới đây là những trường hợp được lập di chúc miệng theo quy định của pháp luật.

Di chúc miệng là gì?

Di chúc miệng là di chúc được lập không phải bằng hình thức văn bản mà do người để lại di chúc “truyền lời” lại cho người làm chứng khi tính mạng của người đó đang bị cái chết đe doạ (ví dụ như đang bị thương nặng do tai nạn hoặc bị bệnh nặng sắp chết…) và không thể lập di chúc bằng văn bản.

Định nghĩa này căn cứ vào khoản 1 Điều 629 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trong đó, di chúc là di nguyện, ý chí của người có tài sản nhằm để lại tài sản của mình cho người khác sau khi người này qua đời. Do đó, nội dung của di chúc miệng cũng không khác một bản di chúc thông thường.

Điểm khác biệt giữa di chúc thông thường và di chúc miệng là di chúc miệng là loại di chúc không được lập bằng văn bản mà là lời truyền lại của người để lại di sản cho những người làm chứng.

Ngay sau khi di chúc miệng được người để lại di chúc thể hiện ý chí cuối cùng thì người làm chứng phải ghi chép lại di nguyện đó và người làm chứng phải cùng ký tên/điểm chỉ vào văn bản vừa ghi lại đó.

Trường hợp nào được lập di chúc miệng?

Theo Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015 quy định di chúc miệng như sau:

- Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.

- Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

Như vậy, theo quy định nêu trên, di chúc miệng được lập trong trường hợp bị cái chết đe dọa mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.

Di chúc miệng hợp pháp khi nào?

Tại Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 nêu rõ:

- Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;

+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

- Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

- Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện nêu trên.

- Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

Như vậy, ngoài những điều kiện nêu trên, người lập di chúc miệng phải thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng (người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên, điểm chỉ). Và trong thời hạn 05 ngày làm việc, di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

Những người nào không được làm chứng cho việc lập di chúc?

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.

- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

(Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015)

Người nào được thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Theo Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

- Con thành niên mà không có khả năng lao động.

Quy định nêu trên không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015.

Tác giả: Thạch Thảo