Vị vua lên ngôi lúc 7 tuổi, chống Pháp kiên cường nhưng cuộc đời cô độc và kết cục bi thảm

( PHUNUTODAY ) - Mặc dù được đưa lên ngai vàng với mục đích dễ bề sai khiến vì tuổi còn nhỏ, vị cựu hoàng này lại khiến chính quyền thực dân Pháp vô cùng bất ngờ bởi ý chí chống Pháp kiên định và mạnh mẽ.

Lên ngôi khi mới 7 tuổi

Vị vua mang tên Duy Tân, hay còn được biết đến với tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh San, đã chào đời vào ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 19 tháng 9 năm 1900) và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 26 tháng 12 năm 1945. Ông là con trai của vua Thành Thái và Hoàng phi Nguyễn Thị Định. Duy Tân, cùng với vua cha Thành Thái và vua Hàm Nghi, là ba vị vua nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc vì lòng yêu nước sâu sắc của họ. Họ đã không ngừng nỗ lực tìm kiếm cách thức để khôi phục lại nền độc lập và tự chủ cho quốc gia, dân tộc Việt Nam.

Khi vua Thành Thái buộc phải từ bỏ ngôi vị vì lý do sức khỏe và bị đày đọa tại Vũng Tàu, thực dân Pháp cùng triều đình Nguyễn đã thảo luận về việc chọn người kế nhiệm. Để làm dịu đi phản ứng từ quần chúng và những người trí thức yêu nước, Viện Khâm sứ Pháp dưới sự lãnh đạo của Lévecque đã buộc phải lựa chọn con trai của vua Thành Thái để kế vị ngôi báu.

Vua Thành Thái có đông con, và theo quy tắc, người kế vị phải là con cả. Tuy nhiên, phía Pháp đã không lựa chọn theo quy tắc này. Viện Khâm sứ Pháp đã đề nghị Viện Cơ mật dẫn các hoàng tử của vua Thành Thái tới để lựa chọn người kế vị. Tất cả các hoàng tử đều có mặt, trừ hoàng tử út Vĩnh San. Khi đó, Vĩnh San mới chỉ 7 tuổi và đang chui dưới gầm giường để bắt dế, khiến mọi người phải tìm kiếm trong sự hỗn loạn.

Vua Duy Tân tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh San

Người Pháp đã nhìn thấy Vĩnh San, một cậu bé nhỏ tuổi, tỏ ra nhút nhát và sợ hãi trước người Tây, và họ đã rất hài lòng với điều này, do đó đã chọn cậu để tấn phong. Trong cuốn sách “Vua Duy Tân” của tác giả Hoàng Hiển, xuất bản năm 1995, đã ghi nhận rằng các anh em của Vĩnh San đã bị loại bỏ vì nhiều lý do, trong đó quan trọng nhất là “các đứa trẻ thừa kế đều mang những tật xấu của cha mình (tức vua Thành Thái), có khuôn mặt khó nhìn, tay chân không gọn gàng, và vẻ mặt đầy âm hiểm”. Mưu đồ của Pháp là đưa một vị vua chưa biết gì về việc cai trị đất nước, không có tinh thần chống lại Pháp, để sau này dễ dàng sai khiến. Họ tin rằng, càng nhỏ tuổi thì càng dễ dàng điều khiển.

Vào ngày 28 tháng 7 năm Đinh Mùi (1907), hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh San, mới chỉ 7 tuổi (mặc dù sử sách thường ghi là 8 tuổi do triều đình đã xin tăng tuổi), đã chính thức lên ngôi vua. Theo cuốn “Chuyện những ông hoàng triều Nguyễn”, vào thời điểm đó, bộ áo quần dành cho vị vua nhỏ tuổi này chưa kịp may xong. Vĩnh San phải mặc chiếc áo long bào của vua cha Thành Thái, chiếc áo có đủ cân đai nặng tới 5kg. Khi mặc chiếc áo nặng nề này, nhà vua nhỏ tuổi không thể di chuyển được và phải ngồi một chỗ.

Miệt mài học tập để... chống Pháp

Vĩnh San, một vị vua trẻ tuổi, dường như yếu đuối và ngây thơ, đã thay đổi hoàn toàn sau lễ đăng quang chỉ trong một ngày. Không chút e dè trước người Tây, ông tỏ ra vững vàng và tự tin trong mỗi lời nói, mang đậm chất vương giả. Khi tiếp xúc với Toàn quyền Đông Dương và Khâm sứ Trung Kỳ, Vĩnh San không ngần ngại mà trực tiếp trao đổi bằng tiếng Pháp.

Khi đến lúc chọn niên hiệu, Vĩnh San đã chọn “Duy Tân”, một từ có nghĩa là cải cách hoặc đổi mới. Điều này đã tạo ra một sự thách thức mạnh mẽ đối với người Pháp, bởi họ luôn mong muốn người dân An Nam mãi mãi lạc hậu để dễ dàng thống trị. Nhưng Vĩnh San, khi lên ngôi, đã chọn hai chữ “Duy Tân”, thể hiện rõ ràng ý chí và quyết tâm của mình.

Vĩnh San sau khi lên ngôi đã chọn niên hiệu là Duy Tân

Nhà báo đã tường thuật buổi lễ đăng quang này không thể dự đoán trước được những hành động phản đối Pháp của Vua Duy Tân trong tương lai. Tuy nhiên, ông đã nhận ra sự sai lầm của thực dân Pháp khi lựa chọn Vĩnh San làm vị vua của Đất nước Nam. Bài viết của ông kết thúc bằng một câu tiếng Pháp, khi dịch ra có nghĩa: “Chỉ một ngày trên ngai vàng đã hoàn toàn biến đổi diện mạo của một cậu bé mới lên tám tuổi”.

Khi lên ngôi, Duy Tân được người Pháp tạo ra một môi trường giải trí nhằm phân tâm ông khỏi công việc quốc gia. Tuy nhiên, Duy Tân đã không để mình sa lầy trong những thú vui bất tận mà thay vào đó, ông đã dành thời gian để học hỏi và nắm bắt kiến thức về nhiều lĩnh vực như tiếng Pháp, triết học, chính trị học, luật lệ, và triều chính.

Ông còn thành thạo nhiều nhạc cụ như đàn nguyệt, đàn tranh, và tiếp thu kiến thức văn hóa, thành tựu của phương Tây. Tiến sĩ sinh học Ebérhard, người dạy ông Pháp văn, triết học, chính trị học, thường nói với các viên chức xung quanh mình rằng: “Vị thiếu đế này sẽ trở thành một nhân vật phi thường”.

Khi trưởng thành, Vua Duy Tân ngày càng thể hiện rõ ràng ý chí phản đối Pháp qua lời nói và hành động của mình. Trong cuốn sách “Gần 400 năm vua chúa triều Nguyễn”, có ghi chép rằng hàng năm, nhà vua và hoàng mẫu đều ra Cửa Tùng nghỉ mát. Những ngày nắng đẹp, vua thường ra bãi biển tắm, sau đó chơi trò xây lâu đài cát.

Có một lần, sau khi vừa hoàn thành việc xây dựng một thành lũy, một quan thị vệ đã mang chậu nước đến để vua rửa tay. Vua Duy Tân chỉ vào thành lũy và hỏi quan thị vệ: “Nếu tay nhớp thì ta dùng nước để rửa, nhưng nếu nước nhớp thì ta dùng gì để rửa?” Viên quan thị vệ hiểu ý của vua, nhưng không dám phát biểu, chỉ ấp úng. Vua Duy Tân liền nói: “Nếu nước nhớp, thì chỉ có thể dùng máu để rửa sạch”.

Có một lần, Quan Thượng thư Nguyễn Hữu Bài đã mời Vua Duy Tân đi câu để giải trí. Trong lúc đợi cá cắn mồi, lưỡi câu của Vua Duy Tân bất ngờ mắc kẹt vào một vật không rõ. Nhân cơ hội này, Vua đã tạo ra một câu đối sâu sắc: “Ngồi trên nước không ngăn được nước/Trót buông câu đã lỡ phải lần”. Câu đối này mang ý nghĩa rằng: “Dù tôi đang ngồi trên ngai vàng, nhưng tôi không thể ngăn chặn quốc gia rơi vào tay của thực dân Pháp. Nếu đã trở thành vua, tôi phải tìm cách giải cứu dân tộc và đất nước”.

Nguyễn Hữu Bài, với lòng biết ơn sâu sắc đối với tấm chân tình của vua, tuy nhiên, lại thấy rằng bản thân đang gặp phải những khó khăn không thể vượt qua. Trong thời điểm hiện tại, triều đình đang yếu kém, chưa đủ sức để thay đổi cục diện. Ông đã thể hiện suy nghĩ của mình qua câu đối: “Ngẫm sự đời mà ngán cho đời/Đành nhắm mắt đến đâu hay đó”. Khi nghe điều này, Vua Duy Tân cảm thấy vô cùng buồn bã.

Vào thời điểm đó, tổ chức Việt Nam Quang phục Hội, được sáng lập bởi Phan Bội Châu vào năm 1912, đã tiến hành những hoạt động phản đối Pháp với quyết tâm mạnh mẽ. Nhận biết được hoài bão độc lập tự cường của vua Duy Tân, Việt Nam Quang phục Hội đã tìm cách tận dụng sự ủng hộ của vua nhằm tăng cường hiệu quả trong việc chống lại Pháp.

Việt Nam Quang phục Hội đã tận dụng một chiến lược khéo léo: khiến cho người lái xe của vua Duy Tân từ chức, sau đó giới thiệu một thành viên của tổ chức vào vị trí đó. Nhờ đó, họ đã có cơ hội trình bày trước vua một bức thư, trong đó nói về những khó khăn mà nhân dân đang phải chịu đựng và chỉ trích những tội ác mà Pháp đã gây ra. Bức thư cũng thể hiện sự quyết tâm không thể lay chuyển của tổ chức: họ sẽ đứng lên để đánh đuổi kẻ xâm lược. Trong bức thư, có một đoạn rất ấn tượng: “Kia Mỹ quốc dòng giống rợ đen năm mươi năm còn có thể tự cường, huống chi ta con cháu Tiên Rồng, 25 triệu nỡ đành hèn yếu? Trời sinh vua thông minh, chính trực, có chí cử binh chống Pháp. Đất sinh người tài giỏi, có quyền đuổi giặc thương dân!”.

Sau khi đọc xong bức thư, Vua Duy Tân đã cảm thấy vô cùng xúc động. Ngài đã tổ chức một cuộc họp kín với hai nhà lãnh đạo Thái Phiên và Trần Cao Vân của Việt Nam Quang phục Hội. Cả hai phía đã cùng nhau thảo luận về tình hình trong nước và quốc tế, và đã đạt được sự thống nhất về kế hoạch khởi nghĩa.

Vua Duy Tân luôn không ngừng học hỏi, nắm bắt kiến thức

Vào ngày 3 tháng 5 năm 1916, cuộc khởi nghĩa đấu tranh chống lại sự thống trị của Pháp, dưới sự lãnh đạo của Vua Duy Tân và tổ chức Việt Nam Quang phục Hội, đã chính thức bắt đầu. Lực lượng chủ lực trong cuộc khởi nghĩa này chủ yếu là những chiến sĩ Việt Nam, những người đã bị Pháp gom góp tại Huế với mục đích chuẩn bị đưa đi Pháp để tham gia vào những trận chiến giữa Pháp và Đức dưới hình thức lính đánh thuê, cùng với những lính khố xanh, khố đỏ trong kinh thành.

Trên bầu trời đêm ngày 2 tháng 5, vị vua trẻ Duy Tân đã lặng lẽ rời khỏi cung điện Hoàng thành. Ngài mặc một chiếc áo dài màu đỏ sẫm, đầu đội một chiếc khăn đen, và quần vải, hướng về điểm hẹn tại Phu Văn Lâu. Một chiếc thuyền nhỏ đã chở ngài theo dòng sông Bạch Hổ, sau đó ngược dòng sông Lợi Nông để đến một ngôi nhà yên tĩnh nằm bên bờ sông.

Tuy nhiên, không may thay, hai ngày trước đó, một thành viên trong lực lượng nổi dậy đã tiết lộ thông tin về kế hoạch này. Chiều ngày 2 tháng 5, thực dân Pháp đã ra lệnh thu giữ tất cả các khẩu súng của các trại lính Việt và cấm không cho phép bất kỳ lính Việt nào ra khỏi trại.

Vua Duy Tân, dưới sự bảo vệ của hai người Trần Quang Siêu và Tôn Thất Đề, đã đến làng Hà Trung để chờ đợi tín hiệu thành công từ nghĩa quân. Tuy nhiên, đến 3 giờ sáng, không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy sự tiến triển. Ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa nhận ra rằng kế hoạch của họ đã bị phát hiện, và vội vã đưa vua Duy Tân lên thuyền để trốn lên miền núi Tây Nam. Họ đã tìm nơi trú ẩn tại xóm Ngũ Tây, thôn An Cựu, Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, mọi nỗ lực của họ đều không thể thoát khỏi sự theo dõi của người Pháp.

Vào buổi sáng ngày 6 tháng 5, vua Duy Tân cùng hai nhà lãnh đạo Thái Phiên và Trần Cao Vân, cùng với nhiều nhà cách mạng khác, đã bị bắt giữ. Tòa Khâm sứ Pháp đã ra chỉ thị cho Viện Cơ mật phải tiến hành xét xử nhanh chóng và mạnh mẽ đối với những người liên quan đến cuộc khởi nghĩa, bao gồm cả nhà vua. Hồ Đắc Trung, Thượng thư bộ Học, đã được giao nhiệm vụ soạn thảo bản án.

Trong không gian tĩnh lặng của ngục tối, Trần Cao Vân đã nhận được tin tức đáng buồn này. Anh biết rằng Hồ Đắc Trung, một người có lòng trung thành, đã bất đắc dĩ phải tham gia vào việc này. Vì vậy, Trần Cao Vân đã tìm cách gợi ý cho Hồ Đắc Trung: hãy đổ tội cho các chí sĩ để giảm nhẹ hình phạt cho nhà vua. Hồ Đắc Trung đã tuân theo lời khuyên này.

Khi bản án được thảo ra, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu đều bị kết án tử hình. Trong khi đó, nhà vua, một người trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm, được cho là đã bị lôi kéo vào cuộc nghĩa quân, do đó không bị kết án.

Ngày 6 tháng 5 năm 1916 vua Duy Tân bị bắt giữ

Những tháng ngày bị lưu đày cực khổ và cái chết bất ngờ

Dù không hề bị kết tội, nhưng vua Duy Tân đã phải chịu cảnh lưu đày sau nhiều lần từ chối thỏa hiệp với quân đội Pháp. Trong cuốn sách mang tên “Vua Duy Tân”, vị vua trẻ tuổi này đã tỏ lòng yêu nước qua lời nói: “Nếu như tôi không dũng cảm đứng đầu cuộc vận động ấy (tức cuộc khởi nghĩa năm 1916), thì trong mắt dân tộc, tôi sẽ bị coi là kẻ hèn nhát, phản bội quê hương, phản bội tổ tiên. Sự bất lực trong việc thực hiện nghĩa vụ, trong việc bảo vệ quê hương, trong việc bảo vệ lãnh đạo dân tộc của mình, thật sự không xứng đáng với ngôi vương mà tôi đã được trao”. Việc vua Duy Tân bị bắt cùng với những hành động quả cảm của ông trước kẻ thù đã tạo ra một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với dư luận thời bấy giờ, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở cộng đồng người Việt ở Pháp.

Vào đầu tháng 11 năm 1916, vị vua trẻ Duy Tân cùng với vua cha Thành Thái đã bị lưu đày đến đảo Réunion thuộc châu Phi. Những người được phép đi cùng vua là hoàng mẫu Nguyễn Thị Định, hoàng phi Mai Thị Vàng và em ruột của vua là Mệ Cưỡi. Tuy nhiên, do không thích nghi được với khí hậu trên đảo, hoàng phi Mai Thị Vàng đã gặp phải biến cố sẩy thai và sau đó không còn khả năng sinh con. Vua Duy Tân đã khuyên bà nên trở về quê hương để giữ gìn sức khỏe. Cuối cùng, vào năm 1921, bà Mai Thị Vàng đã quyết định trở về Việt Nam và sống một mình cho đến cuối đời.

Sau một khoảng thời gian sáu năm, vua Duy Tân đã kết hôn với cô gái Fernande Antier, người là con gái của một gia đình có gốc Pháp. Họ đã cùng nhau sinh ra một hoàng nữ tên là Rita Suzy Georges Vĩnh San và ba hoàng tử là Guy Georges Vĩnh San, Yves Claude Vĩnh San và Joseph Roger Vĩnh San.

Ông trải qua những năm tháng lưu đày cực khổ và bất ngờ tử nạn do tai nạn máy bay

Tại chốn lưu đày, vua Duy Tân đã phải đối mặt với những tháng ngày khó khăn. Tuy nhiên, dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt, ông vẫn không ngừng học hỏi. Trong sự cô lập của hải đảo, khi không có thông tin về khoa học hay thời sự, cựu hoàng đã tự mình tìm hiểu và nghiên cứu về vô tuyến điện, nhằm chế tạo ra các thiết bị liên lạc với thế giới bên ngoài. Theo một bài báo từ đảo Réunion, cựu hoàng đã trở thành một chuyên gia, có khả năng “tháo ráp một chiếc máy vô tuyến cũng như việc đọc một bài diễn văn bằng một ngôn ngữ tuyệt vời, để trình bày nguyên tắc của môn khoa học mà ông yêu thích”, mặc dù thiếu thốn về thiết bị và nguyên liệu.

Trong suốt thời gian bị lưu đày, vua Duy Tân đã nhiều lần muốn gia nhập quân đội Pháp, nhưng đều bị từ chối vì người ta nghi ngờ ông có thể mua chuộc và lập mưu để rời khỏi đảo nhằm tái lập ngôi vương. Khi Chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ, Pháp phải đối mặt với Đức quốc xã. Tướng De Gaulle đã kêu gọi sự kháng chiến. Vua Duy Tân đã quyết định gia nhập quân đội và vào năm 1945, ông được thăng chức lên Thiếu tá. Sau đó, De Gaulle đã ủng hộ cựu hoàng trở về Việt Nam để tham gia vào công việc chính trị.

Trước khi trở về quê hương, cựu hoàng đã lên máy bay từ Pháp để trở về đảo Réunion với mục đích thăm các con. Bà Fernande Antier, người vợ của Duy Tân, đã kể lại: “Khi nghe tin cựu hoàng sắp trở về thăm gia đình, tất cả chúng tôi đã ngồi chờ đợi, nhưng sau đó không thấy ông trở về. Chúng tôi đã gọi điện cho tất cả các sân bay trên tuyến bay từ Paris đến Réunion. Đến chiều hôm sau, chúng tôi đau lòng khi nhận được tin cựu hoàng đã gặp nạn”. Trên hành trình đến đảo, máy bay đã đâm vào một ngọn núi và rơi xuống gần làng Bassako, thuộc phân khu M’Baiki, Cộng hòa Trung Phi. Thi thể của vua Duy Tân đã được tìm thấy và được chôn cất tại nghĩa trang công giáo M’Baiki. 42 năm sau, vào tháng 4 năm 1987, hài cốt của ông đã được con cháu đưa về Huế và được chôn cất tại khu vực An Lăng, bên cạnh mộ của vua cha Thành Thái.

Tác giả: Trần Thu Thủy