FULRO - Hồ sơ đen của tổ chức tội ác: Sám hối

( PHUNUTODAY ) - Lang Bian, một vùng rừng đại ngàn, hoang vu trải dài từ xã Đầm Ròn (nay là huyện Đam Rông, giáp tỉnh Đăk Lăk) đến gần hết các xã của huyện Lạc Dương, với chiều dài khoảng 90km, cách trung tâm TP. Đà Lạt 30km”.

(Phunutoday) - “Đại bản doanh của “Đệ nhất Phó thủ tưởng” được đặt ở hang Ploóc Krong nằm sâu trong dãy Bi-doop - núi Bà - Lang Bian, một vùng rừng đại ngàn, hoang vu trải dài từ xã Đầm Ròn (nay là huyện Đam Rông, giáp tỉnh Đăk Lăk) đến gần hết các xã của huyện Lạc Dương, với chiều dài khoảng 90km, cách trung tâm TP. Đà Lạt 30km”.


Ông Ya Đuk nói rằng, hang Ploóc Krong xứng đáng được xếp vào loại “số 1” xét về giá trị...lẩn trốn, bởi nó vô cùng hiểm trở, hùng vĩ, địa thế thì không chê vào đâu được. Hang Ploóc Krong được bao bọc phía trước là ngọn núi Voi sừng sững sát quốc lộ 20 từ Đà Lạt đi Sài Gòn, có khả năng che chắn, bảo vệ. Tại núi Voi, “Bộ chỉ huy TW Fulro” cho đóng rất nhiều căn cứ với hàng trăm Fulro.
 
Toàn huyện Lạc Dương lúc đó có đến trên 80% đồng bào DTTS sinh sống, hầu hết đều “giúp đỡ” Fulro, hoặc đã bị Fulro khống chế. Nếu có động, Fulro trong hang Ploóc Krong sẽ kịp thời được báo để mà chuẩn bị phản công hoặc sơ tán. Cửa hang ở độ cao khoảng 200m, lòng hang có sức chứa cả trăm người.

Đặc biệt trong hang có cấu tạo một phòng riêng, rất đẹp như một hành cung dành riêng cho “Đệ nhất phó thủ tướng” Ya Đuk. Tại lối vào cửa hang cach vài cây số có nhiều trạm gác, quân Fulro thay phiên nhau túc trực ngày đêm. “Địa chỉ đen” này chính là nơi sinh ra những kế hoạch chống phá cách mạng, chống phá cuộc sống bình yên của các buôn làng…

Mãi tới năm 1983, cuộc đời Nahria Ya Duck mới thực sự rẽ sang bước ngoặt tươi sáng khi ông quyết định trở về với nhân dân, với chính quyền cách mạng sau  chuyên án F101. Ông Ya Duck nói: “Cái mà tôi đeo đuổi và hành động suốt bao nhiêu năm là đem lại ấm no và sự bình đẳng cho các dân tộc Tây Nguyên nhưng lại chọn cách làm cực kỳ sai lầm. Thực ra đó là điều mà Đảng, Nhà nước ta đang làm nhưng theo một cách khác và cách đó mới mang lại kết quả tốt đẹp. Gía mà tôi và nhiều người khác nhận ra được chân lý sớm hơn thì tránh được sự đổ máu vô ích khi nhân dân ta đã đổ quá nhiều máu trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc!”…

Sau khi trở về, Ya Duck đã thực sự vượt qua được những mặc cảm, những cái hố ngăn cách để xác lập lại chỗ đứng đích thực của mình trong lòng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Ông trở thành tuyên truyền viên tích cực kêu gọi những tàn quân Fulro đang lẩn trồn, đói khát và bệnh tật trong những cánh rừng sâu trở về với nhân dân, với chính quyền cách mạng.

Và sau đó, với sự tín nhiệm của Đảng và nhân dân, Ya Duck đã trở thành một cán bộ mặt trận tích cực. Vị trí công tác của ông hôm nay được xây dựng bởi một quá trình chuyển biến lâu dài của nhận thức cá nhân, sự độ lượng khoan dung của chế độ và lòng tin yêu của nhân dân các dân tộc anh em.

Cuộc đời của Nahria Ya Duck đã trải qua những bước thăng trầm, biến động. Những chặng đường dài với bao cay đắng, ngọt bùi đã giúp ông định giá chính xác sự tốt đẹp trong cuộc sống của đồng bào Tây Nguyên mà Đảng, nhà nước và chế độ ta mang lại. Ya Duck nói rằng, ông rất đau lòng vì sự kiện Tây Nguyên hồi tháng 2-2001 và tháng 4-2004, khi một bộ phận đồng bào nhẹ dạ, cả tin, bị kẻ xấu lôi kéo vào mưu đồ của chúng tham gia gây rối làm mất trật tự, trị an.

Ông cũng tỏ ra rất bức xúc và cực lực phản đối những kẻ mang tâm địa xấu xa trong cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, chúng biến mình thành công cụ sai khiến của các thế lực thù địch, thực hiện nhiều hoạt động khủng bố hòng kích động, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại cuộc sống đang rất bình yên của đồng bào.

Ông Ya Duck nói: “Chúng ta không ngạc nhiên với những luận điệu của bọn xấu do kẻ thù giật dây, nhưng buồn lòng khi một bộ phận đồng bào đã bị chính kẻ thù của mình lôi kéo vào âm mưu thâm độc của chúng.” Những điều Nahria Ya Duck nói thật sự chí lý, bởi đó là tâm sự mà ông rút ra từ gan ruột, từ sự thật cuộc đời, từ chính những cảm quan cá nhân và hiện thực cuộc sống Tây Nguyên…

Tôi còn nhớ rất rõ, đó là ngày 4-7-1994. Một cú điện thoại bất ngờ của một người bạn làm việc ở Công an Lâm Đồng vào lúc đêm khuya : “Cậu chuẩn bị đi với tụi mình nhé! Có một gia đình Fulro vừa trở về sau gần hai mươi năm lạc lối giữa rừng sâu…” Những ngày sau đó, chúng tôi có mặt và chứng kiến một câu chuyện thật sự hiếm hoi khi đất nước đã thanh bình gần hai mươi năm và từ lâu vấn đề Fulro tưởng chừng đã lùi về ký ức…



Sinh năm 1936, Tounéth Den là con trai của một gia đình khá giả thuộc dòng họ Tounéh người Churu ở buôn Klăngbong, thuộc xã Tà Năng (Đức Trọng, Lâm Đồng). Là một trong số ít thanh niên Churu hồi đó được đi học và biết chút ít chữ nghĩa, 29 tuổi Den sung vào cảnh sát Ngụy và hoạt động ở quận Đơn Dương. Tháng 4-1975, đất nước thống nhất, trong khi cả dân tộc đang hân hoan chào đón hòa bình lập lại trên quê hương sau gần 30 năm đau thương, tang tóc thì Den và nhiều người khác đã nghe theo lời kẻ xấu xúi giục để rồi chui lủi vào rừng sâu đến hai mươi năm mới có được một ngày trở về.

Bằng một giọng trầm buồn, Touneh Den kể lại : “Lúc đó tôi hoang mang lắm! Người ta rỉ vào tai tôi rằng, ai tham gia trong chế độ cũ sẽ bị trả thù tàn khốc, một cuộc tắm máu rùng rợn sắp sửa xảy ra. Rằng, người Mỹ sẽ giúp chúng ta lấy lại chính quyền sau 6 tháng. Phải vào rừng tập hợp lực lượng để chống lại cộng sản, theo Fulro để thành lập nước Đề Ga tự trị của người Tây Nguyên. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn thấy vô cùng ngu ngốc, không hiểu vì sao ngày đó mình lại nhẹ dạ như thế!…”

Từ một tên lính cảnh sát nguỵ, Touneh Den lại tiếp tục lầm đường và trở thành một tên  Fulro. Ba năm sau khi vào rừng , Den  được “phong” hàm “đại uý” và chức “tỉnh phó” rồi sau đó là “tỉnh trưởng Phan Rang”. “Ngài tỉnh trưởng” với vài tên lính và mấy khẩu súng cũ sót từ thời chiến tranh lại chui lủi suốt các dãy núi, những cánh rừng già từ Lâm Đồng đến Sông Bé rồi Đồng Nai, Bình Thuận. Những cuộc cướp phá dân lành vô tội. Những lần tập kích chống phá cách mạng. Những cuộc trốn chạy sự truy quét của chính quyền cách mạng, đói mờ con mắt và những vết thương trên cơ thể và trong tâm hồn của những kẻ u mê, những người con bị ruồng bỏ của buôn làng Tây Nguyên.

Năm 1982 giữa rừng sâu Kây Kmao trên vùng đất Bình Thuận, Tounéh Den lấy vợ, hay nói đúng hơn là cướp một người con gái hiếm hoi trong lực lượng Fulro làm vợ, đó là Kiều Thị Hương - người Chăm quê ở Phan Rang, vốn là công nhân ngành chè Lâm Đồng cũng nghe lời xúi giục của kẻ xấu bỏ trốn vào rừng.
q
 Vũ khí và các trang thiết bị, tài liệu của bọn Floro
Giữa rừng sâu đói khát và bệnh tật ấy, sáu đứa trẻ đã chào đời trong tiếng khóc lạc loài: Tounéh Hoa, Tounéh Hoan, Tounéh Manai Hằng, Tounéh Đoan cùng hai cháu là Tounéh Hăngxala và Tounéh Tí Hon mới sinh ra mà đã phải lìa đời vì bệnh tật và đói khát. Cuộc sống của cái gia đình lạc lối giữa rừng sâu ấy là cuộc sống của loài thú hoang hoàn toàn cách biệt và xa lạ với loài người. Họ mất liên lạc hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Họ cũng hoàn toàn không biết rằng từ lâu lực lượng Fulro đã bị thanh toán. Giữa rừng sâu, còn lại gia đình Tounéh Den và tên lính cuối cùng Mang Sanh. Đói rét, bệnh tật, thú  dữ và vô vàn những nguy cơ đe doạ họ trong suốt những tháng ngày sống trong hang đá và lang thang kiếm ăn suốt các dốc núi, triền rừng…       

Qua nguồn tin của nhân dân, Công an Lâm Đồng đã phát hiện ra họ. Tháng 4-1993, huyện Đức Trọng phát đi một lá thư kêu gọi gia đình Tounéh Den trở về với buôn làng. Nhận được thư kêu gọi, Tounéh Den và cả gia đình đã thao thức suốt ba ngày đêm suy nghĩ, và cuối cùng họ đã quyết định trở về. Sau nhiều tháng ngày luồn rừng, vượt suối, tháng 7-1994, họ đã về đến buôn Klăngbong. Trên đường đi, thêm một lần chị Kiều Thị Hương trở dạ sinh con và cũng trên cuộc hành trình trở về gian nan ấy người lính Mang Sanh đã chết vì sét đánh.

Cuối tháng 3-2011, tôi trở lại Tà Năng và về thăm lại ngôi nhà của gia đình Touneh Den. Ông Den đã mất do căn bệnh ung thư. Câu chuyện cũ bà Kiều Thị Hương kể lại vẫn là những kỷ niệm đau buồn nhất trong cuộc đời của gia đình họ. Nhưng phần nhiều là những câu chuyện mới, về một cuộc đổi đời đã đến thật nhanh trong cái gia đình lầm lạc một thời ấy, với hai ngôi nhà xây, với 8 hecta cà phê, với máy cày, máy xới, máy tưới và đàn con ngoan, giỏi của bà.

 “Poh nuh nao plao nuh wơh”- đó là một câu nói quen thuộc của người Chu Ru, khi dịch ra cũng tương tự câu tục ngữ  của người Kinh : Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại. Vận câu nói này với Tounéh Den và gia đình anh thật đúng.

Cuộc nổ súng bất đắc dĩ...

Ngày 25-3-1996, Công an huyện Đạ Huoai (Lâm Đồng) phát bản thông báo nhanh: “Vào lúc 11 giờ ngày 24-3-1996, Công an huyện cùng với đồng bào dân tộc xã Đạ Ploa, đã phát hiện bao vây và nổ súng bắt sống toàn bộ nhóm Fulro cuối cùng trên địa bàn huyện.” Hóa ra không phải “Tỉnh trưởng Phan Rang” Touneh Den và gia đình là nhóm Fulro trở về cuối cùng!
 
Trước đó, cơ quan anh ninh đã được quần chúng cung cấp nhiều thông tin về nhóm tàn quân này. Được sự chỉ đạo của Ban Giám đốc Công an tỉnh Lâm Đồng, Công an Đạ Huoai đã liên tục tổ chức trinh sát, dò tìm và tiếp cận đối tượng. Mất cả hàng năm trời mới lần ra tung tích của chúng nhưng công việc truy bắt không dễ dàng.

Ngày 29-2-1996, Công an huyện đã hình thành một phương án tác chiến. Sau đó, tổ công tác do trinh sát Lương Văn Hợi làm tổ trưởng đã lặn lội vào rừng sâu. Họ hóa trang thành những người dân Cơ Ho đi bẫy thú, bí mật vũ trang 1 khẩu súng AK và 2 khẩu súng ngắn. Sau 6 ngày của chuyến đi này, tổ công tác trở về chưa có kết quả.

Họ lên đường lần thứ hai. Sáng 24-3-1996, khoảng 11 giờ trưa họ phát hiện tiếng động và sự di chuyển của nhóm Fulro tại khu vực tọa độ 56-04. Trinh sát Lương Văn Hợi hô to và đồng thời nổ súng. Cả toán bỏ chạy mỗi tên một hướng. Bốn đồng chí đã tiến hành truy kích và bắt sống toàn bộ nhóm tàn quân ở thượng nguồn suối Đạ Quang, gần núi S’Lung, vùng núi đá hiểm trở có độ cao 1.500m thuộc vùng đất của huyện Tánh Linh (Bình Thuận).

Nhóm Fulro bị bắt gồm 5 tên (thực ra không hẳn vậy, vì trong nhóm có 2 đứa trẻ): K’Long Nhão, sinh năm 1937, quê ở buôn Mê Buk Long Tụ, trốn vào rừng từ tháng 4-1975, từng được phong là “thiếu tá, tỉnh trưởng” Run Ka (tức Long Khánh, Đồng Nai); K’KRẽo, sinh năm 1954 ở buôn Đạ Prang, trốn vào rừng năm 1978 là “thiếu úy, trưởng toán”; nữ Fulro Ka Ọp, sinh 1954 tại buôn Xuân Sơre, trốn vào rừng năm 1977; và hai đứa trẻ là: K’Sứ, sinh ở trong rừng năm 1990, là con của K’KRẽo và Ka HBếch (đã chết vì té cây) và K’Môm, cũng sinh trong rừng năm 1989, là con của Ka Ọp và bố là K’Mách (đã chết vì sốt rét ác tính)…

21 năm sau ngày đất nước thống nhất và mười mấy năm sau khi tổ chức Fulro bị tiêu diệt, đây là cuộc truy bắt muộn mằn và những tiếng súng khuấy động không gian yên tĩnh giữa rừng sâu là những tiếng nổ bất đắc dĩ giữa thời hòa bình. Nếu không có cuộc vây bắt thành công, suýt nữa họ đã trở thành “người rừng”. Không phải là “suýt nữa” mà là sự thật. Chúng tôi đã chứng kiến 5 con người ngơ ngơ ngác ngác, kể cả viên “thiếu tá, tỉnh trưởng” K’Long Nhão.

Người già nhất trong nhóm đã có 21 năm lạc lối giữa rừng sâu và cậu bé K’Sứ sinh năm 1990 giữa rừng chưa hề có một khái niệm nhỏ về cuộc sống cộng đồng. Họ không có hoặc mất hết mọi nguồn thông tin về đồng loại. Họ nơm nớp lo sợ bị trả thù, không tồn tại bất kỳ một ý nghĩa nào về lòng tốt của con người.

Họ thụ động, chạy trốn, lén lút, tồn tại như những con thú hoang lạc bầy. Sau khi vây bắt, trên hiện trường mà nhóm Fulro cư trú sót lại một khẩu súng Cacbin hết đạn, 2 cây nỏ và một bó mũi tên tẩm độc, một số xoong nồi và quần áo rách tả tơi, một “hộp quẹt” lấy lửa từ những hòn đá cuội. Hiện trường đó đã đủ để hình dung về cuộc sống của họ.

Năm con người ấy chui rúc trong các hang đá vùng núi S’Lung như người tiền sử. Họ làm tên nỏ thuốc độc để chống chọi với thú dữ. Để tồn tại, họ đã ăn bất cứ thứ gì có thể ăn được trong rừng từ củ mài, củ chụp đến lá bép, đọt mây. Còn mặc là những tấm áo quần rách tả tơi được lấy trộm từ những hình nôm đuổi chim trên nương rẫy của đồng bào. Thật xót xa khi nhớ lại thời điểm đó, tôi nhìn hai đứa trẻ K’Môm và K’Sứ. Sắc diện chúng chẳng khác gì con mang, con vượn trong rừng.

Trong khi bạn bè đồng lứa bình yên cắp sách tới trường thì K’Sứ, K’Môm gần như quên hết tiếng người, leo cây hái quả, moi đất lấy củ và cùng đồng hành với ba người lớn trong những cuộc chạy trốn. Sau khi được dẫn về cơ quan Công an, lần đầu tiên nhìn thấy cơm, thằng K’Môm hỏi mẹ: “Đây là cái gì? Có ăn được không?” Còn K’Sứ thì ngồi ngắm đôi dép nhựa trắng mới như một vật lạ từ hành tinh khác!...

Trong bản “trích ngang” hồ sơ mà Công an tỉnh Lâm Đồng cung cấp cho chúng tôi, có ghi: K’Long Nhão nguyên là thư ký hội đồng xã Lộc Thọ (Đạ Huoai) và K’KRẽo nguyên là lính ngụy cải tạo ở trại Đại Bình. Còn Ka Ọp chỉ là một phụ nữ theo chồng. Từ những chi tiết ấy, tôi chợt nghĩ: Giá như họ không lầm đường lạc lối thì đã không bỏ phí 20 năm cuộc đời đi tìm những điều phi nghĩa và vô vọng!...

Thây ma dựng lại

Tưởng chừng ảo vọng tự trị mang tên Fulro đã  được giải quyết triệt  để từ  lâu, nhưng hoá ra bóng ma của nó vẫn chưa thôi  ám ảnh vùng đất tây Nguyên. Sang thế kỷ XXI, bộ xương khô lại cựa mình  đòi sống dậy dưới  cái tên  “Nhà nước Đề Ga” hay “Cộng hòa Đề Ga”.

Thực chất Đó là một tổ chức phản động của nhóm người lưu vong với mưu đồ ly khai khu vực Tây Nguyên thành một quốc gia riêng rẽ độc lập. Tổ chức này được sự hỗ trợ của “Quỹ người Thượng” thành lập tại Mỹ do Ksor Kơk cầm đầu đã tiến hành nhiều âm mưu điên cuồng, thâm độc, nhằm lôi kéo những phần tử xấu trong nước tiến hành biểu tình, bạo loạn, khuấy động cuộc sống yên lành của vùng đất Tây Nguyên. Mưu đồ của các thế lực thù địch mà những kẻ như Ksor Kớk là những con bài chính trị của chúng là làm mất an ninh trên toàn Tây Nguyên - Việt Nam…

Như đã nói ở phần trước loạt bài này, khi Liên Hợp Quốc đưa lực lượng UNTAC vào thực hiện giải pháp chính trị ở Campuchia, Fulro hầu như không còn chỗ dựa. Với sự chấp thuận của Hoa Kỳ, tháng 12-1992, toàn bộ số Fulro còn lại gồm 407 tên (kể cả phụ nữ và trẻ em) do Y Pênh A Yun cầm đầu đã ra hàng UNTAC. Tại lễ hạ cờ đó, Y Pênh A Yun đã chính thức tuyên bố chấm dứt hoạt động chính trị và vũ trang của Fulro, giao nộp vũ khí, và sau đó được người Mỹ đưa đi định cư ở bang Colorado.

Tưởng rằng mọi chuyện đến đó là kết thúc. Thế nhưng, với ảo vọng điên cuồng của nhóm phản động người gốc Tây Nguyên do Ksor Kớk cầm đầu, dưới sự giật dây và hỗ trợ của các thế lực thù địch Việt Nam đã tiếp tục tạo nên sự bất ổn chính trị, trật tự trị an đối với vùng đất Tây Nguyên.

Sau buổi lễ thành lập “Nhà nước Đề Ga” vào năm 2000 mà thực chất là kế hoạch vô vọng phục hồi lại Fulro cũ, từ Mỹ, Ksor Kơk đã chỉ đạo tay chân chuyển tài liệu về nước, tuyên truyền, mở rộng mạng lưới và gây dựng tổ chức. Chúng tôi tạm gọi tất cả những trò chính trị bẩn thỉu này của Kớk và những kẻ nấp phía sau y là một hệ thống mưu đồ đen tối và thù địch - là “âm mưu Tây Nguyên”. 

Để hiểu thêm về cái gọi là “Nhà nước Đề Ga tự trị” ảo tưởng này, cũng cần nói thêm đôi chút về “ngài tổng thống tự phong” Ksor Kơk. Theo một số tài liệu và lời kể của một số nhân chứng, Ksor Kơk sinh năm 1943 tại làng Bon Broai, xã Yatul, huyện Ayun Pa, tỉnh Gia Lai. Năm 1958, y gia nhập phong trào BaJaRaKa. Năm 1964, Kơk đi Campuchia để tham gia tổ chức Fulro, lúc đó vừa mới thành hình.  Y’Bham Ênuôl, thủ lĩnh Fulro, đã bổ nhiệm y làm đại diện tộc Jarai của khu vực Pleiku và Cheo Reo.

Trong bảy năm tiếp sau đó, Ksor Kơk đầu quân cho quân đội Mỹ và phục vụ tại sư đoàn 4 bộ binh đóng ở Pleiku, nhưng y vẫn là người của Fulro. Khi Hoàng thân Norodom Sihanouk bị lật đổ năm 1970, tất cả quân số Fulro ở Campuchia đều bị sung vào các lực lượng của quân đội Cộng hòa Khmer do tướng Lon Nol chỉ huy. Bởi biến cố chính trị này của Campuchia mà Fulro đã nằm im trong giai đoạn 1970 - 1973.

Giữa những năm 1971 - 1974, chính tướng Lon Nol đã gửi Ksor Kơk đi học tại trường sĩ quan tình báo Mỹ ở Okinawa và trường đào tạo sĩ quan phiên dịch tại Mỹ. Lợi dụng tình thế “nhất cử lưỡng tiện” này, Y Bham Ênuôl đã cử Ksor Kơk làm đại diện của ông ta đối với Chính phủ Mỹ và Liên Hợp Quốc. Khi Fulro hồi phục, năm 1974, Ênuôl bổ nhiệm Ksor Kơk làm tổng tham mưu trưởng Fulro…

Để tiếp tục thực hiện ảo vọng đen tối của một kẻ mà suốt cuộc đời làm tay sai ngoại bang, từ giữa năm 1998 đến nay, Ksor Kơk chỉ đạo cho một số cá nhân là người dân tộc thiểu số từ nước ngoài về móc nối với các phần tử phản động, quá khích tại vùng Tây Nguyên, phát tán tài liệu có nội dung kích động, chia rẽ đoàn kết dân tộc.

Năm 2000, y đã cùng một số nhân vật lưu vong thành lập và ra mắt trên đất Mỹ cái gọi là “Nhà nước Đề Ga tự trị” và tự phong cho mình cái chức “tổng thống”, với mục đích chính là tạo cớ thu hút sự ủng hộ về mặt tài chính của các tổ chức phản động khác. Sau đó, tháng 2-2001, một bộ phận đồng bào dân tộc tại các địa phương vùng Tây Nguyên đã bị y và tay chân lôi kéo, xúi giục, dọa dẫm bắt tập trung đến trụ sở chính quyền tỉnh Gia Lai đưa ra những kiến nghị vô lý.

Tại một số địa phương ở Đắc Lắc và các tỉnh khác tại Tây Nguyên cũng xảy ra các vụ gây rối tương tự. Rồi tiếp đó là sự kiện gây rối năm 2004 tại các tỉnh Tây Nguyên. Ai cũng biết, “tổng thống” Ksor Kơk là người đứng phía sau tất cả những vụ gây bất ổn đó. Và sau lưng Kơk là ai thì thiết nghĩ không cần phải nói thêm…

Ksor Kơk đã tham gia Đảng cấp tiến xuyên quốc gia (TRP) năm 2001. Tháng 8/2001, sau khi tổ chức những cuộc biểu tình, bạo loạn  tại Tây Nguyên, Kơk đã mượn diễn đàn phát biểu ý kiến đại diện cho TRP tại tiểu ban LHQ về nhân quyền. Tháng 4-2002, Ksor Kơk cũng lại phát biểu trước Ủy ban LHQ về nhân quyền tại Geneva rồi sau đó là tại hai cuộc điều trần về tự do tôn giáo tại Thượng viện và Hạ viện Ý tháng 10-2002.

Năm 2003, y lại phát biểu tại Thượng viện Mỹ về vấn đề nhân quyền. Nội dung các cuộc điều trần này là xuyên tạc về tình hình cuộc sống của người dân tộc thiểu số Việt Nam và bóp méo các thông tin về các vùng dân tộc để chứng minh điều mà tên phản động lưu vong này gọi là “sự đàn áp của Chính phủ Việt Nam đối với người dân tộc”.

 Trong sự kiện ngày 10-4-2004, Ksor Kơk cũng tranh thủ sự chú ý của công luận để xuất hiện nhằm đánh bóng tên tuổi của mình. Y liên tục xuất hiện trên các diễn đàn quốc tế, trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, ra tuyên bố trên các Website có tư tưởng thù địch với Việt Nam… 

Kso Kok là ai? Chúng tôi thiết nghĩ không nên dành thêm ngôn từ để nói về kẻ phản lại chính dân tộc, tổ quốc và đồng bào của chính mình. Xin trích lời Nhạc sỹ Linh Nga Niek Đăm - một người con Tây Nguyên trong bức thư ngỏ gửi y: “…

Một đứa con bỏ amí (mẹ) già và quê hương không ngó ngàng gì đến, đi biệt xứ 40 năm nay như ông, một người khuyến khích toàn thể cộng đồng mình từ bỏ truyền thống văn hóa của ông bà ta xưa - kẻ vi phạm luật tục - có quyền gì? Nhân danh ai mà dám gây nên những xáo trộn trong đời sống buôn làng, đòi hỏi quyền lợi cho người dân tộc thiểu số Tây Nguyên (trong đó có cả mẹ và các em ông) chứ?”

Thời thuộc Pháp, người Tây Nguyên tăm tối giữa rừng sâu. Cũng như các dân tộc anh em, họ chỉ là những con ong cái kiến, quanh năm suốt tháng làm xâu, làm mướn.

Một nhà viết sử nước ngoài đã viết: “Nếu không có người Thượng thì ai khiêng Tây đi, ai ghánh đá lát đường”. Thời Mỹ - Ngụy, các dân tộc Tây Nguyên bị đối xử bất bình đẳng, các phong tục, tập quán bị kỳ thị, bản sắc văn hóa bị xóa nhòa. Những chính sách về dân tộc của chúng là ngu dân với ý đồ gây mâu thuẫn, nghi kỵ, chém giết giữa các dân tộc. Chỉ đến khi có ánh sáng của Đảng và nhất là từ ngày nước nhà thống nhất đến nay, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên mới thực sự được giải phóng bởi đêm trường đói nghèo, lạc hậu. Họ được làm công dân của một nước độc lập; được phát triển bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc anh em.
Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, tổ chức thực hiện nhiều chương trình và đầu tư những nguồn lực lớn để phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. Điện, đường, trường học, trạm y tế và nhiều công trình hạ tầng, phúc lợi khác ngày càng mọc nhiều hơn trên những vùng đất ngày xưa tăm tối.

 Ngày xưa, tập quán du canh du cư làm cho cuộc sống vô cùng cay cực; ngày nay, người Tây Nguyên thực hiện định canh, định cư ổn định cuộc sống, vươn lên lập vườn, lập trang trại làm giàu.

Bên cạnh bản sắc văn hóa được bảo tồn, phát huy, đồng bào Tây Nguyên còn được hưởng những chính sách ưu đãi riêng của Đảng và nhà nước về giáo dục, y tế và các chính sách an sinh xã hội khác. Thế nhưng, những thế lực thù địch với đất nước ta vẫn cố tình bôi nhọ, kích động vì đó chính là bản chất phản động, xấu xa của chúng.

Từ tổ chức BaJaRaKa đến tổ chức Fulro - các thế lực phản động quốc tế đã biến Tây Nguyên thành nơi đổ máu và nước mắt trong cảnh nồi da xáo thịt. Nhưng cuối cùng âm mưu ấy đã bị đập tan. Bao nhiêu năm qua, hàng nghìn người lầm đường lạc lối đã trở về bình yên với buôn làng. Những tên nhiều nợ máu bị nhân dân hỏi tội.

Để kết thúc loạt bài viết này, chúng tôi xin nhường lời tâm sự chân thành của Tou Neh Den - “tỉnh trưởng” Fulro trở về (nay đã mất): “Phải dập tắt những chuyện đó! Chính tôi 20 năm đi “xây dựng nước Đề Ga” mà thực tế đó chỉ là một ảo tưởng sai lầm và ngu ngốc, là một sự bịp bợm của bọn phản động mê hoặc những khối óc u mê, mù quáng. Dù muộn màng nhưng tôi đã nhận ra mình lạc lối và trở về trong sự khoan hồng của chế độ và lòng nhân hậu của buôn làng. Bằng sức lực và khối óc, tôi đã tạo lập một cuộc sống hạnh phúc ngay trên chính quê hương, trên mảnh đất mà trong những ngày đen tối nhất của cuộc đời tôi đã nghe lời kẻ xấu từ bỏ ra đi…”

Lời nói tâm huyết của Tounéh Den như là một sự thức tỉnh đối với những ai đang mang trong mình những ảo tưởng sai lầm và cũng là lời kết tội những kẻ mang tâm địa xấu xa!…

Uông Thái Biểu
[links()]
TAGS:
Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn