Nguyễn Thị Mai Anh và thế giới tâm linh của vợ chồng TT Thiệu

( PHUNUTODAY ) - (Phunutoday) -Vợ chồng Nguyễn Văn Thiệu tin theo, cho xây hồ nước tại công trường thành hình bát giác, từ trên cao nhìn xuống giống hệt những ô bát giác trên mai rùa.

(Phunutoday) - Quá khứ đau thương đã khép lại hơn 36 năm, dân tộc Việt Nam anh hùng trong chiến đấu giành độc lập tự do, bảo vệ Tổ quốc, nhưng lại rất rộng lượng, bao dung và nhân ái.


Những con người, sự kiện trong câu chuyện kể này không hàm ý khơi gợi bất cứ sự hiếm khích, ghét bỏ gì mà chỉ mong muốn để cho người đọc nhìn thấy một cách rõ ràng hơn cuộc sống, tiền bạc, tình ái, áp phe của những nhân vật chóp bu chế độ VNCH do Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo với những sự thật không thể che giấu.

Một người từng bưng bê mâm khay ở Dinh Độc Lập dưới trướng Nguyễn Văn Thiệu và đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh đã nhận xét: “Tôi luôn luôn giữ lòng quí mến đối với Tổng thống Phu nhân. Bà lúc nào cũng giữ nếp sống bình dị của người đàn bà phúc hậu, bao dung của sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đối với tôi, bà Thiệu là hình ảnh một người mẹ, một người vợ hiền đảm đang hơn là một vị Đệ nhất Phu nhân sống trong tột đỉnh của quyền thế và nhung lụa giàu sang.

Bà là điển hình của mẫu người phụ nữ lớn lên trong gia đình được hấp thụ trọn vẹn một nền giáo dục Khổng Mạnh (tuy bà là người Công giáo) mà chúng ta thường thấy trong xã hội miền Nam thời thập niên 40. Bà Thiệu luôn luôn tỏa ra sự trong sáng và vui tươi.

e
Vợ chồng TT Thiệu ngày cuối năm 1951
Bà không bao giờ câu nệ về cách ứng xử của nhân viên thuộc cấp.

Mỗi lần gặp mặt, bà luôn luôn lên tiếng hỏi thăm sức khỏe chúng tôi trước, không kịp để chúng tôi chào bà. Điều đặc biệt là bà không bao giờ đề cập đến bất cứ chuyện gì có liên hệ đến việc làm của ông Thiệu với chúng tôi. Trong suốt thời gian làm việc tại đây, chỉ có một lần duy nhứt tôi nghe bà than phiền với ông Thiệu bằng lời lẽ rất ôn tồn về một nhân vật có đầy quyền thế tại Phủ Tổng thống trong lúc tôi đang đứng bên cạnh”.

Bà Nguyễn Văn Thiệu có khuê danh Nguyễn Thị Mai Anh, là con gái thứ bảy trong một gia đình có mười người anh em, có nghề lương y truyền thống nổi tiếng ở Thành phố Mỹ Tho-Tiền Giang. Là người theo đạo Công giáo toàn tòng nhưng bà Mai Anh ảnh hưởng khá lớn nề nếp, gia phong của một gia đình phong kiến, trong phong thái, cung cách ứng xử, phẩm hạnh của bà thể hiện rất rỏ nét sự tinh hoa của Khổng giáo trong cách đối nhân, xử thế.

Mỹ Tho với Sài Gòn ngày đó không xa đối với các gia đình quyền thế, giàu có, nhứt là khi có phương tiện xe lửa Sài Gòn- Mỹ Tho rất tiện lợi. Do đó cô Bảy Mai Anh với người em gái Tám Hảo thường xuyên lên Sài Gòn để học hành, thăm người thân. Do gia đình quen biết với bác sĩ- dược sĩ Huỳnh Văn Xuân, làm việc ở viện bào chế Trang Hai, hai chị em Mai Anh được giới thiệu vào làm “Trình dược viên”  tại Viện bào chế Roussell  tại Việt Nam.

Chính bác sĩ Huỳnh Văn Xuân làm mai mối cho Thiệu quen Mai Anh. Mặc khác, cậu Mai Anh là Đặng Văn Quang là bạn học cùng khóa võ bị Đà Lạt với Thiệu nên mối tình nhanh chóng được xúc tiến hôn nhân, dù có đôi chút trở ngại vì Mai Anh là tín đồ Thiên Chúa giáo. Nhưng do sự dàn xếp của gia đình đám cưới vẫn tiến hành trọng thể không gặp khó khăn như ông hoàng Bảo Đại với Nam Phương Hoàng hậu ngày xưa.
d
Bà Mai Anh (bên trái ngoài cùng)

Sau này Thiệu mới rửa tội trở thành tín đồ Thiên Chúa giáo Roma. Nhiều hình ảnh tư liệu lưu lại cho thấy, Nguyễn Văn Thiệu là một con chiên rất ngoan đạo, thường có mặt tại các giáo đường những ngày lễ Thánh, chiều Chủ Nhật tại nhà thờ Đức Bà.


Năm 1951, thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu cưới Nguyễn Thị Mai Anh theo nghi lễ truyền thống của người dân miền Trung thờ Phật và thờ ông bà.

Chú rể Nguyễn Văn Thiệu mặc áo dài, khăn đóng như quan lại thời phong kiến trong ngày vinh quy bái tổ. Cô dâu Mai Anh mặc áo dài vẽ hoa màu trắng tím, rất nền nã, thướt tha, dịu dàng rất đẹp mà tao nhã. Nhiều người biết chuyện đến giờ vẫn khen họ là đôi nhân tình rất đẹp, xứng đôi.



d
Vợ chồng TT Thiệu về thăm quê Phan Rang

Dường như họ sinh ra là để cho nhau, ngày ấy không ai biết rằng 14 năm sau, chàng rể Thiếu tá mang hàm Trung tướng và đăng cơ Quốc trưởng, Uỷ ban lãnh đạo quốc gia rồi Tổng thống và cô dâu Nguyễn Thị Mai Anh hiền thục, nhu mì trở thành đệ nhất phu nhân. Sinh thời trên quan dưới quân đều khen đệ nhất phu nhân Mai Anh là người phụ nữ đôn hậu, nhân ái, hiền thục, không tham gia vào chính trị, không can dự triều chính chỉ chăm lo hậu cung.

Tất cả việc này khác hẳn với tính cách và tham vọng của người đàn bà quyền lực trong Dinh Gia Long trước đó là bà cố vấn Trần lệ Xuân. Trong bài viết kỳ tới sẽ mổ xẻ để hiểu rõ hơn về “đệ nhất phu nhân” Mai Anh, bên trong sự nhu mì, phúc hậu ấy, liệu có thật như những gì thiên hạ thấy hay không?

Cuộc đời của Nguyễn Văn Thiệu có những ẩn số khá bí hiểm và nặng dấu ấn tâm linh. Từ ngày tháng năm sinh ẩn giấu, đến việc trấn yểm long mạch tại núi Mặt Qủy, hòn Đá Dao trên núi Đá Chồng quê hương Ninh Hải của ông, rồi phá thủy, yểm đuôi rồng, trấn phong thủy Hồ con rùa, ba vị chiêm tinh gia bói toán, tử vi thuộc hàng đệ nhất phương Nam là “quỉ cốc tiên sinh” Huỳnh Liên, Khánh Sơn và Minh Nguyệt đã tiếp tay, lập mưu giúp Thiệu trị quốc, trừ tà khá li kỳ.

Bí ẩn đầu tiên là ngày tháng năm sanh của Thiệu dường như đã có sự sắp đặt có ý đồ cho hậu vận, thiên cơ, có “chân mạng đế vương”. Bàn tay sắp đặt đã có từ khi Thiệu khóc chào đời. Nhưng rất ít ai được biết một cách rõ ràng.
d
Bà Mai Anh năm 2009 ở Mỹ

Mãi đến khi Nguyễn Văn Thiệu qua đời ở tuổi 78, tại cáo phó và văn bia khắc ghi: sinh ngày 5/4/1923 Âm lịch, tuổi Qúy Hợi. Không giống như từ trước đến nay người đời nhầm tưởng ông sinh năm Giáp Tý  ngày 24’12/1924 , “tam tý vi vương” ngày tý, tháng tý, năm tý chỉ sự cát lợi, thịnh vượng đúng 10 năm trên ghế Phủ đầu rồng (1965-1975). Cuối cùng thiên hạ mới té ngửa ra mình đã bị lừa. Ngày sinh 5/4/1923 chẳng ăn nhập gì đến yếu tố Tý, hay nói một cách chính xác rơi vào ngày Mậu Thân, tháng Ất Mão, năm Quý Hợi không chút liên quan gì đến “tứ tý” (sinh nửa đêm-giờ tý).

Tử vi chỉ rõ: Người có lá số “tứ tý” này "tuổi thơ nghèo khổ, ít học, nhưng khôn ngoan và ương ngạnh. Tuy háo sắc nhưng rất kín đáo để che giấu tình cảm. Là người có vóc dáng thanh tú, điềm đạm, thông minh, mưu trí và nhất là biết chụp thời cơ. Có khiếu về văn nghệ và ngoại ngữ, lấy vợ sớm và phải có người mai mối". Về tính cách, "đây là người ôn hòa, mềm mỏng, đa nghi, có nhiều mưu trí. Suốt cả cuộc đời đều được yên thân và hưởng giàu có sau 33 tuổi. Khuyết điểm của người tuổi này là: chủ quan, liều lĩnh, thô bạo, nóng nảy...".

Theo quẻ ứng thì toàn bộ tính cách, biểu hiện trên là ứng 100% vào Thiệu về mọi phương diện. Dù nói công khai, lộ liễu hay nói úp mỡ đến đâu thì mọi người vẫn ngầm hiểu vận mệnh quốc gia đang thuộc về người chèo lái Nguyễn Văn Thiệu có chân mạng đế vương với tuổi tý “tam trùng quí số”.

Bịp bợm hơn, năm Nhâm Tý 1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu còn cho phép ba thầy Huỳnh Liên, Minh Nguyệt và Khánh Sơn – “những quỉ cốc cao nhân” trong nghề chiêm tinh, tử vi và bói toán nổi tiếng miền Nam mà ông ta rất tin tưởng - lên đài truyền hình nói trước dân chúng về vận mạng quốc gia.

 Lá tử vi quý số "tam tý" của Nguyễn Văn Thiệu được ba thầy tranh nhau nhắc đến, gắn "chân mạng đế vương" của người đứng đầu thể chế với "một nền hòa bình và vĩnh cửu, cho dân chúng miền Nam, đang đến rất gần".

Lại nữa, mệnh của Thiệu là mệnh Kim mà lại nằm vào cung Thủy là đắc cách. Năm 1965, khi Thiệu đúng 41 tuổi đi vào cung Thổ, mà Thổ lại sinh Kim, lại gặp Khoa, Quyền, Lộc, Binh, Hình, Tướng, Ấn hội chiếu là thượng cách, vì thế Thiệu giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, rồi sau đó lên chức Tổng thống.

Vì cung Phúc Đức là gốc của lá số cho nên tuy hết làm Tổng thống mà Thiệu vẫn được thụ hưởng giàu sang, an nhàn cho đến năm 1985, nghĩa là vào hạn Chính Hòa ở cung Ngọ". Sinh ra trong một gia đình Nho học, không thể nói có sự nhầm lẫn về việc khai sinh của Thiệu trong giấy tờ được.

Với những người dân nghèo ở miền Trung hồi đầu thế kỷ XX, khi sinh con rất ít khi nhớ rõ ngày tháng thật, họa hoằn lắm chỉ nhớ sinh con vào mùa nào, có trăng hay không, ngày mưa hay nắng thôi, còn Nguyễn Văn Thiệu sinh ra trong một gia đình theo truyền thống Nho học ở làng Tri Thủy, xã Tri Hải, quận Thanh Hải, nay là thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận thì không thể có sự nhầm lẫn như vậy, nhất là nguyên thủ quốc gia sau 10 năm cầm quyền vẫn không thay đổi, nhắc gì việc này. Cũng có thể năm xưa đã có một cao nhân phán trước về “tương lai” đế vương của Thiệu cũng nên.

Trấn long mạch núi mặt quỷ, hòn đá dao tại quê hương

Sau màn độc diễn bầu cử ngày 6/3/1971, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố tái đắc cử ghế Tổng thống với tỉ lệ 94,36% số phiếu và được Tối cao Pháp viện Sài Gòn công nhận kết quả. Để tạ ơn, Thiệu đã đưa gia đình về quê hương Ninh Hải thắp hương mộ tổ. Ông cho gom mồ mả của dòng họ cải táng về một nghĩa trang lập riêng sau Trường tiểu học Dư Khánh và lệnh cho tỉnh trưởng Ninh Thuận phải thường xuyên cắt hai lính bảo an ôm súng đứng gác.


Mặt khác, vợ chồng Thiệu cho sửa sang Trùng Sơn tự trên đỉnh núi và Văn Thánh miếu ở lưng chừng núi Đá Chồng nằm giữa hai xã Khánh Hải và Văn Hải. Trùng Sơn tự là nơi mẹ của Tổng thống chọn làm nơi quy y cửa Phật lúc xế chiều. Còn Văn Thánh miếu, đó là nơi thờ tự, lễ lạt của những thành viên Hội Khổng học Ninh Thuận. Ông muốn chứng tỏ, dù đã cải sang đạo Thiên Chúa, mang tên Thánh Martino Nguyễn Văn Thiệu, ông vẫn chưa hề quên truyền thống Nho học và đạo Phật của gia đình.

Ở vùng Ninh Hải quê của Thiệu, có ngọn núi tên Đá Chồng. Trên núi có ba tảng đá lớn chồng lên nhau có hình thù rất dữ tợn đặt tên là núi Mặt Qủy. Cách núi Mặt Qủy khoảng 1 cây số, ở chóp Bắc núi Đá Chồng, có một tảng đá lớn hình tam giác nhọn, màu đất sét, chiều ngang cỡ 6 m, cao 3m nhìn giông giống như cái dao, nên được gọi tên là hòn Đá Dao, các thầy phán là “yểm mệnh” của Thiệu.

Dân xứ này có câu nói “Mặt Qủy kỵ Đá Dao”, sở dĩ Nguyễn Văn Thiệu thăng quan, tiến chức, phát quang lộ mặc dù nhà gần chân núi Mặt Qủy vẫn không sao là nhờ hòn Đá Dao. Tin lời các quân sư “chiêm tinh gia” nên nhân chuyến hồi hương vinh quy bái tổ, vợ chồng Thiệu mang theo các sự phụ cao nhân về để trấn, yểm giữ long mạch núi Đá Chồng để bảo vệ linh khí cho Thiệu về sau.

f
Núi mặt quỷ ở Ninh Hải

Để "yếm" long mạch ngay phía trước mặt hai tảng Đá Dao và Mặt Quỷ, Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho tỉnh trưởng tỉnh Ninh Thuận điều một trung đội Công binh gấp rút xây lại Văn Thánh miếu thành 3 ngôi nhà lớn tạo hình chữ Công, án chóp phía bắc núi Đá Chồng, sau đó làm gấp một con đường trải nhựa chạy thành hình vòng cung từ dưới tỉnh lộ lên đến Văn Thánh miếu. Công trình hoàn tất, một trung đội Biệt động quân đã được điều về để ngày đêm bảo vệ.

Âm dương bài bố đầy đủ, Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh yên tâm, ngủ ngon và tin tưởng đến mức gửi trọn tiền đồ quốc gia cho những lời phán truyền sấp ngửa. Vì vậy mà đầu xuân 1972, Thiệu lệnh cho ba thầy Huỳnh Liên, Minh Nguyệt và Khánh Sơn nhảy lên Đài Tuyền hình Sài Gòn rêu rao cái gọi là “vận mạng quốc gia” và khéo léo đề cập đến đương kim Tổng thống đang mang mệnh trời “tam tý vi vương”. Nhưng người tính không bằng trời tính, nhân mệnh không thể thắng thiên.

 Vào một buổi chiều năm 1974, lúc đó khoảng 4 giờ, đùng một phát, từ lưng chừng núi, ngọn Đá Dao - linh vật trấn yểm giữ vận mạng đời Nguyễn Văn Thiệu như lời thầy phán bị vỡ đôi lăn lông lốc xuống, đánh vỡ ba hòn đá Mặt Quỷ và lăn xuống chân núi giữa một chiều không mưa, trời quang mây tạnh...khiến mọi người vô cùng kinh hãi.

Vào dịp Tiết Kinh Trập (sâu nở) mùa xuân năm 1975, toàn vùng Văn Sơn, Bình Sơn, Khánh Hải, Ninh Chữ đột nhiên xảy ra một trận thiên địch lớn chưa từng thấy. Hàng đàn sâu bọ, côn trùng các loại, nhất là sâu róm, sâu gai xuất hiện dày đặc, quét hết đợt này, đợt khác lại xuất hiện tràn qua đường lộ và cầu Lăng Ông. Chúng tàn phá sạch sẽ các loại hoa màu, ruộng lúa. Đây là vùng đất chuyên trồng hành lá, sâu bò lổn nhổn đầy đường, đầy đất nên nhiều gia đình phải chạy di tản. Sau đó là hàng dàn bươm bướm hàng ti tỉ con bay rợp trời.

 Tại núi Đá Chồng, trong các hốc đá của hòn Đá Dao bị vỡ, sâu và bọ hung cũng xuất hiện lũ lượt. Chúng túa ra, bò hàng đàn qua lộ và nối nhau mất hút ra phía biển. Dân chúng đồn đãi kháo nhau: vận ông Thiệu đã hết. Đá Mặt Qủy, hòn Đá Dao ngã đổ đồng nghĩa với “mệnh trời” của Nguyễn Văn Thiệu cũng ngã theo.

Đầu năm 1975, Quân Giải phóng đã đánh chiếm tỉnh Phước Long, vận đúng như lời thầy tử vi đã phán "Giáp Tý, kỵ Ất Mão". Con chuột kỵ con mèo, thế nhưng để  lên dây cót tinh thần, trên mặt báo ở Sài Gòn vẫn còn nhan nhãn lời những kẻ xu nịnh, a tòng ca tụng "quý số" và tài năng của ông Thiệu đại loại như: "Là người lãnh tụ phải biết trị quốc.

Cụ Ngô Đình Diệm cầm quyền 9 năm bị 2 lần đảo chánh, vậy không biết trị quốc và quá tin người nên chết thảm. Đại tướng Dương Văn Minh cầm quyền 3 tháng bị 1 lần đảo chánh, vì không biết trị quốc nên thân bại danh liệt.

Nguyễn Khánh cầm quyền 13 tháng, Phan Huy Quát 5 tháng, Nguyễn Cao Kỳ 2 năm, tất cả đều bị lật đổ, vậy không biết trị quốc nên sự nghiệp tiêu tùng. Riêng ông Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền 10 năm không một lần đảo chánh, vậy là người biết trị quốc - xứng danh là lãnh tụ".

Ca tụng làm vậy, nhưng việc đến tất sẽ đến. Cuộc tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc thắng lợi vang dội từ các chiến trường Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và đúng ngày 16/4/1975, toàn tỉnh Ninh Thuận được giải phóng, phòng tuyến thép bảo vệ Sài Gòn từ xa mà Nguyễn Văn Thiệu lập ra tại Phan Rang đã bị đập nát nghiền như tương bột. Tàn quân rầm rộ nối đuôi nhau tháo chạy cả ngày lẫn đêm.  

Nhớ hồi khởi đầu sự nghiệp Thiệu, Quỷ Cốc tiên sinh Huỳnh Liên được Thiệu rước vào dinh đã phán chắc nịch: "Thầy cầm tinh Giáp Tý, năm Quý Mão (1963) tất gặp chông gai. Thầy phải đích thân đứng ra đẩy bật tảng đá chắn đường mình đi, nếu không thì mạng vận của thầy sẽ bị tảng đá này đè nát". Vợ chồng Thiệu tin sái cổ. Quỷ Cốc tiên sinh còn phán thêm: "Số phần đã vạch, thầy chớ có nhị tâm mà rước họa vào thân, chết không toàn mạng".

Nguyễn Văn Thiệu đã líu ríu thề độc sẽ theo phe đảo chính, chính thức ký tên vào danh sách những kẻ sẽ nhúng tay vào tắm máu anh em Ngô Đình Diệm vào ngày 1/11’1963. Lúc ấy Thiệu đang là tư lệnh Sư đoàn 5 cơ động đóng quân tại Biên Hòa, liền trở mặt với Diệm-Nhu kéo về bao vây, tấn công Dinh Gia Long.

Về sau, ai hỏi đến, Thiệu lấp liếm cho rằng, chỉ nỗ súng khi biết chắc Diệm và ông Nhu đã thoát ra ngoài. Quẻ bói của Qủi cốc tiên sinh giúp Thiệu lập công, “đẩy bật tảng đá chắn đường mình đi” đã linh nghiệm, tạo đà cho Thiệu gác việc binh đạo trở thành một chính trị gia. Từ đại tá bay vù lên thiếu tướng nhờ lập công lớn, tham gia đảo chánh. Chính thức giúp Thiệu đặt những bước chân đầu tiên lên nấc thang quyền lực trong bộ máy chánh quyền Sài Gòn đang cảnh rối ren, hỗn loạn “quần ngư tranh thực”. 

Dùng rùa lớn, đinh đại yểm đuôi rồng quẫy

Mê tín đến mức cuồng tín, nhưng vốn bản tính đa nghi bẩm sinh, nên vợ chồng Thiệu luôn trong tâm trạng bất an, chưa hết lo. Năm 1967, vợ chồng Thiệu cho mời một thầy địa lý người Hoa từ Hồng Kông vào Dinh Độc Lập yểm bùa. Thầy địa lý phán: "Dinh được xây trên long mạch, trấn ngay vị trí đầu rồng. Đuôi rồng nằm cách đó non 1km, rơi vào vị trí Công trường Chiến Sĩ. Cần phải dùng một con rùa lớn yểm đuôi rồng lại, sự nghiệp của Tổng thống mới mong bền vững".

Vợ chồng Nguyễn Văn Thiệu tin theo, cho xây hồ nước tại công trường thành hình bát giác, từ trên cao nhìn xuống giống hệt những ô bát giác trên mai rùa.

Vị trí của hồ được đặt ngay chính vị trí cửa Khảm Khuyết của thành Gia Định xưa (còn gọi là thành Bát Quái hay thành Qui). Giữa trung tâm hồ nước là một đài tưởng niệm, trên có đúc một con rùa lớn bằng kim loại đội bia ở trên lưng và một cột cao có hình cánh hoa xòe ở phía trên, xem như một chiếc đinh đóng xuống giữa hồ để ghim đuôi rồng lại.

 Năm 1972, Công trường Chiến sĩ được đổi tên thành Công trường Quốc tế, dân Sài Gòn vẫn quen gọi đó là hồ Con Rùa.

Lại có chuyện liên quan đến yểm long mạch Hồ Con Rùa, từ nguồn gốc xây Dinh Norodom (Đinh độc Lập) từ trước do KTS Ngô Viết Thụ thiết kế. Lấy núi giả trong Sở Thú (Thảo Cầm Viên) làm bình phong, sông Thị Nghè làm lưu thủy, tạo thế long chầu, hổ phục.
Hồ con rùa trước năm 1975
Hồ con rùa trước năm 1975

Người Pháp lại xây Nhà thờ Đức Bà mặt trước bên phải Dinh, phá vỡ thế chữ Vương (gồm Nam Kỳ Khởi Nghĩa-Pasteur-Phạm Ngọc Thạch nay) thêm một chấm thành chữ Chủ, phá thế Long mạch của Dinh. Do vậy phải xây thêm Hồ Con Rùa để phá thủy, làm nước phun lên. Nhưng nêu tinh mắt sẽ nhận ra thêm một huyền cơ bí ẩn khác trong việc này. Số là, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh nằm ngay ngã tư Võ Văn Tần- Lê Qúy Đôn ngày nay, xưa chính là chùa Khải Tường-Nơi sinh ra Hoàng tử Đảm (Vua Minh Mạng) trên đường Nguyễn Ánh- Gia Long bôn tẩu tránh sự truy đuổi của Tây Sơn.

Tương truyền khi Hoàng tử Đảm chào đời, nơi đây phát ra hào quang ánh sáng ba đêm liền. Nếu chiếu thẳng góc, thì chùa Khải Tường thẳng trực với Dinh Độc Lập và thẳng góc vuông với Hồ Con Rùa. Việc trấn yểm này còn liên quan đến ngũ hành, âm dương, phá thủy, giả sơn mà các thầy chiêm tinh, địa lý nào cũng phải  biết. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà Hồ Con Rùa nằm thẳng trục với nhà thờ Đức Bà trên đường Phạm Ngọc Thạch (đường Duy Tân xưa), còn Chùa Khải Tường thẳng trục Dinh Độc Lập tạo thành một hình vuông, nếu chiếu bóng, sẽ là một đường thẳng.
 
Trước ngày Phan Rang giải phóng 16/4, vào ngày 13/4/1975 trung đội lính bảo an bảo vệ khu vực mồ mả, chùa miếu ở núi Đá Chồng quê hương của Thiệu đã bắn chết người cai quản Văn Thánh miếu, rồi xô vào đập nát các bệ thờ, tượng Phật, cạy cả mái ngói để "tìm vàng ông Thiệu giấu".

Một trong những vụ cướp bóc tồi tệ nhất chưa từng có. Ngày 21/4/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã phải ngậm ngùi lên đài truyền hình đọc lời từ chức, thú nhận sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn và chính bản thân ông ta, để rồi sau đó tối 25/4/1975 cùng với Trần Thiện Khiêm chạy sang Đài Loan trốn trong nỗi kinh sợ rợn gáy về khả năng CIA Mỹ lập lại cuộc thủ tiêu như người tiền nhiệm Ngô Đình Diệm.

Có lần công tác ở Ninh Hải, chúng tôi tìm đến ngôi nhà của Nguyễn Văn Thiệu. Ngôi nhà tường xây, cột gỗ, lợp ngói theo kiểu xưa, trong nhà chẳng có gì đặc biệt, không chạm trổ hay điêu khắc gì. Gian nhà chính khá rộng rãi, ít hư hỏng hơn trong khi nhà dưới và nhà bếp xuống cấp nặng.

Theo một người dân tại đây cho biết: Từ sau tháng 4/1975, huyện Ninh Hải tiếp quản ngôi nhà để làm nhà trẻ, sau đó cho các hộ nghèo, hoàn cảnh khó khăn ở tạm, khi nào làm được nhà mới thì bàn giao lại cho người khác. Cứ thế mấy mươi năm nay, đã có nhiều hộ nghèo sử dụng ngôi nhà vô chủ này. Người dân ở tạm, vừa bảo quản, sửa chữa nhỏ, quét vôi, lợp lại ngói đã mục nát  chống mưa dột chút đỉnh...

Một người dân dẫn tôi đi xem và đưa tay chỉ dãy mộ xen cỏ dại mọc lúp xúp, hoang tàn vắng lặng nằm phía sau trường THCS Lý Thường Kiệt nói: "Ðây là mồ mả ông bà, tổ tiên nhà ông Thiệu, gồm các cụ tổ, ông bà nội và các anh chị mất lúc trẻ. Trước giải phóng, khu này lúc nào cũng có hai lính canh, tay lăm le súng ống, nay cả nhà ra nước ngoài, không ai hương khói, bao nhiêu năm đất cát lấp gần hết. Trước đây thấy mười mấy cái mộ, nay chỉ đếm được vài cái…".                                           


Nam Yên
TAGS:
Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn