Trung tướng Tư Bốn Nguyễn Việt Thành: Anh hùng lựu đạn dàn thun

06:08, Thứ năm 12/05/2011

( PHUNUTODAY ) - (Phunutoday)- Ít người biết rằng ông đã#160; từng là người hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với hàng trăm trận đánh vang dội, lập nên nhiều chiến công hiển hách.

(Phunutoday)- Nhắc đến Trung tướng Tư Bốn Nguyễn Việt Thành, hẳn nhiều người nghĩ ngay tới chuyên án “Năm Cam và đồng bọn” cách đây gần 10 năm do chính ông đóng vai trò chính trong quá trình điều tra tấn công đường dây tội phạm đặc biệt nguy hiểm này.

[links()]
Ít người biết rằng ông đã  từng là người hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với hàng trăm trận đánh vang dội, lập nên nhiều chiến công hiển hách. Ông đã chiến đấu rất dũng cảm, hết lòng vì đồng đội, từng một mình quần nhau với hàng trăm tên địch với các loại vũ khí hạng nặng yểm trợ, đã quả cảm cõng một cán bộ lãnh đạo cấp trên bị thương vượt vòng vây lửa đạn, về chiến khu an toàn.

Đặc biệt, ông đã nổi tiếng với sáng kiến “lựu đạn dàn thun” – dùng ná thun bắn lựu đạn bay xa mấy trăm thước đến nơi đồn trú của đối phương, gây cho chúng nhiều thiệt hại, hoang mang tinh thần. Sáng ngày 30.4.1975 ông đã cùng đồng đội đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, Tổng Nha Cảnh sát Sài Gòn, góp phần giải phóng miền Nam.

Chuyện đoàn phim CHDC Đức

Cuối năm 1975, có một đoàn làm phim từ Cộng hòa Dân chủ Đức sang Việt Nam để thực hiện bộ phim tài liệu về cuộc chiến đấu dũng cảm và chiến thắng oanh liệt của quân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đoàn làm phim đã đi khắp các vùng miền, từ miền Trung, lên Tây Nguyên, về miền Đông Nam bộ, rồi xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, cuối cùng họ dừng lại ở địa bàn Tiền Giang – Bến Tre để thực hiện bộ phim tài liệu về chuyện du kích địa phương sáng chế ra lựu đạn dàn thun để tấn công, làm tiêu hao sinh lực đối phương.

Theo lời bình của bộ phim, sở dĩ đoàn làm phim chọn đề tài này, vì nó điển hình cho tính chất của cuộc chiến đấu giữa một bên là du kích miền Nam chính nghĩa nhưng thiếu thốn mọi bề, bên kia là quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa được trang bị tận răng nhưng không được nhân dân ủng hộ vì là phía đi gieo rắc chiến tranh phi nghĩa.

Ná thun chống lại và chiến thắng xe tăng, máy bay là hình ảnh độc đáo của chính nghĩa thắng phi nghĩa, chàng David tí hon đã chiến thắng tên Goliat hung tàn khổng lồ; sáng kiến “lựu đạn dàn thun” cũng cho thấy cuộc chiến kiên cường, dũng cảm, đầy sáng tạo của quân dân miền Nam; quân dân miền Nam đã biết lấy vũ khí của đối phương để tấn công lại đối phương (lựu đạn để bắn dàn thun thường được nhân dân lấy của lính Sài Gòn); đây là cuộc chiến tranh nhân dân, vì muốn bắn lựu đạn dàn thun không thể thiếu sự tham gia của nhân dân, từ lấy cắp lựu đạn cho đến nắm bắt vị trí đóng quân của đối phương, đo cự ly, nắm đội hình của địch…

Bộ phim nói trên sau khi hoàn thành đã được chiếu tại nhiều nước, kể cả ở các nước Tây Âu, làm cho bạn bè trên khắp thế giới hiểu thêm về cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Bộ phim ấy cũng đã được trình chiếu trên các đài truyền hình ở Việt Nam.

Người viết bài này đã vài lần được xem bộ phim nói trên và bao giờ tôi cũng lâng lâng niềm tự hào về cuộc chiến oai hùng của quân dân ta, về sáng tạo độc đáo của thế hệ cha anh đã biết dựa vào những gì mình có, dù là nhỏ nhất, để làm phương tiện chiến đấu và làm nên chiến thắng.

Trên màn ảnh, các du kích trong áo bà ba đen, khăn rằn quấn đầu đi dưới vườn cây để tìm vị trí thích hợp chọn buộc dàn thun. Đến một cây to có thân chia ra hai nhánh vững chãy hoặc hai cây đứng cạnh bên nhau, các du kích lặng lẽ buộc dây thun vào. Xong, họ phân công nhau người thì trèo lên cây cao để quan sát mục tiêu, người thì cầm trái lựu đạn tra vào dàn thun, người đo cự ly để kéo dãn dây thun, còn lại tất cả tập trung kéo dây thun dãn ra để tạo lực đàn hồi bắn trái lựu đạn bay xa. Người chỉ huy hô “bắn”, tất cả đồng loạt buông ra, trái lựu đạn được bắn đi vào không trung và rơi xa mấy trăm mét.

Người quan sát trên cây hô “trúng rồi”, ở dưới đất người chỉ huy tra quả lựu đạn tiếp theo; hoặc người trên cây yêu cầu điều chỉnh “qua trái - qua phải, xa hơn – gần hơn” năm mười mét gì đó, để những người dưới đất điều chỉnh lại “thước ngắm”. Cứ thế mà các du kích nã đạn, chỉ đến khi có dấu hiệu đối phương phản công, họ mới tháo dàn thun và âm thầm rút lui không để lại dấu vết.

Ngày ấy, các nhà làm phim không giải thích rõ vì sao “lựu đạn dàn thun” là sáng kiến của du kích miền Nam nhưng nó chỉ thông dụng ở địa bàn 2 tỉnh Tiền Giang và Bến Tre. Bộ phim cũng không truy nguyên ai là tác giả của sáng kiến độc đáo nói trên. Hẳn là các bạn sẽ ồ lên thú vị khi biết sau đó các cơ quan có trách nhiệm đã cất công đi tìm người có sáng kiến làm “lựu đạn dàn thun” để đánh địch và người đó đã được phong danh hiệu Anh hùng LLVTND.

Các bạn sẽ càng thú vị hơn khi người vừa được nhắc đến không ai khác, mà chính là ông Tư Bốn – Trung tướng Nguyễn Việt Thành, người mà gần 20 năm sau tiếp tục lập công lớn trong chuyên án “Năm Cam và đồng bọn”, đập tan băng nhóm tội phạm đặc biệt nguy hiểm. 

Từ ná thun tới lựu đạn dàn thun

Tháng 8.1980, khi đang là trưởng phòng CSGT tỉnh tiền Giang, ông Tư Bốn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND vì thành tích xuất sắc bảo vệ Tỉnh ủy Mỹ Tho (Tiền Giang ngày nay) trong những năm chiến tranh và thành tích đánh địch bảo vệ cách mạng, bảo vệ nhân dân. Suốt thời gian dài bám trụ trong vùng địch tạm chiếm, không có đồng chí nào trong Tỉnh ủy bị bắt hoặc bị thương vong, công lao đó thuộc về Đội vệ binh Tỉnh ủy do ông Tư Bốn chỉ huy.

Ông cũng chỉ huy hàng trăm trận đánh trong điều kiện tương quan lực lượng rất thua kém đối phương, nhưng các trận đánh thường kết thúc với thắng lợi thuộc về các ông. Dù nhiều lần “vào sinh ra tử”, thương tích đầy người, nhưng mỗi lần nhắc lại cuộc chiến đã qua, ông Tư Bốn không nhớ nhiều về những trận đọ súng quyết liệt giữa hai bên, những trận đánh giáp lá cà giữa các ông với đối phương, mà ông thường thú vị kể lại chuyện chế tạo lựu đạn dàn thun để đánh địch.

Nay dù đã ở tuổi 64, nhưng khi nhắc lại chuyện “lựu đàn dàn thun”, Trung tướng Nguyễn Việt Thành như trẻ lại, hào hứng hẳn lên, sẵn sàng ngồi bẹp ra đất thực hiện lại thao tác bắn lựu đạn bằng dàn thun, thứ vũ khí đã từng làm cho đối phương mất ăn mất ngủ suốt thời gian dài bởi chúng không biết đối phương tấn công từ đâu, lực lượng ra sao, nên hầu như chỉ “ôm đầu chịu trận” hoặc chửi thề và bắn trả hú họa.

Ông Tư Bốn không nhớ rõ ai đã dạy mình chơi bắn ná thun từ thuở nhỏ, ông chỉ nhớ khi lên 9 – 10 tuổi ông đã là tay “thiện xạ” bắn chim, bắn cá với ná thun. Không biết từ đâu, có thể là nhờ các truyện tranh có nội dung “diệt bạo cứu kẻ thế cô”, mà cậu bé Huy (ông Tư Bốn có tên khai sinh là Nguyễn Văn Huy) đã có thiên hướng tìm diệt những loài cá dữ, những con quạ, con diều để bảo vệ đàn gà con, vịt con. Có lần cậu bé đã khóc thương và cả đêm không ngủ được vì mấy con gà con mà cậu vô cùng thương yêu đã bị lũ quạ, diều bắt mất lúc xế chiều. Vậy là cậu bé quyết tâm phục kích tìm diệt cho bằng được lũ chim ác.

Không phải đợi lâu, chiều hôm sau con diều nọ “ăn quen” sà xuống sân nơi đàn gà con đang tìm thóc quanh quẩn bên mẹ. Con gà mẹ phát hiện nguy hiểm đã kịp choàng cánh bảo vệ đàn con, nhưng một chú gà con ở xa mẹ đang tuyệt vọng trước móng vuột của con chim dữ. Bất ngờ, một tiếng “phực” vang lên, con diều đang đập cánh bay lên bỗng lảo đảo và đổ sụp xuống sân, một viên đạn bằng đất sét phơi khô từ chiếc ná của cậu bé Huy đã làm vỡ sọ con chim dữ…Dường như ở mỗi người đều có thiên hướng ngay từ lúc còn bé, thiên hướng ấy có tác dụng định hướng hành vi của người ấy khi lớn lên dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Thiên hướng “trừ gian diệt bạo” đã xuất hiện ở cậu bé Huy qua cái cách mà cậu sử dụng chiếc ná thun.

Ông Tư Bốn kể tiếp: Khi về công tác ở Đội Vệ binh Tỉnh ủy Tiền Giang, một lần ông nghe đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đi họp trên R về kể chuyện du kích Tây Nguyên đánh địch bằng lựu đạn bắn bằng dàn thun.  Trung đội trưởng Tư Bốn à lên thú vị vì bắn ná thun là nghề của mình. Vậy là ông lao vào nghiên cứu, bỏ cả cơm trưa, suốt ngày quần quật buộc tháo dây thun quanh mấy thân cây to ở cạnh đơn vị.

Ông chọn một cây có thân chia làm hai nhánh rồi mua 1 kg thun khoanh bện lại làm dàn thun. Xong, ông phân công 3 – 4 người phối hợp thực hiện thao tác kéo dây bắn “lựu đạn” làm từ trái bình bát hoặc cục đất. “Lựu đạn” bay đi được 50, rồi gần 100 mét, vậy là thành công, tối đó ông Tư Bốn mừng đến không ngủ được.

Những ngày sau đó, Tư Bốn nâng dần lượng thun lên 2, rồi 3 kg. Cự ly bắn cũng kéo dài ra 200, rồi 300 mét. “Biên chế” cho đội bắn cũng tăng dần lên đến 9 – 10 người. Tư Bốn vừa là “xạ trưởng” chỉ huy cả “pháo đội”, vừa ôm trái “lựu đạn” đã được lắp vào ná, vừa canh cự ly, cuối cùng là ra lệnh “bắn”. Các chiến sĩ đồng loạt buông dây thun được kéo căng khoảng 15 mét, trái “lựu đạn” bay vút vào không trung và rớt xuống nơi xa.

Các ông xách dây đi đo khoảng cách “lựu đạn” bay xa, rồi tính toán góc bắn, độ kéo dãn dây thun…. Cứ lặp đi lặp lại hàng chục, hàng trăm lần như thế, cuối cùng ông Tư Bốn đã xây dựng được “thước ngắm” chính xác, muốn bắn trái lựu đạn đi xa bao nhiêu, chỉ cần điều chỉnh góc bắn và độ kéo dãn dây thun.

Ngày bắn lựu đạn thật rồi cũng tới, một toán lính Mỹ đi càn và đóng quân cách địa hình gần 300 mét. Tư Bốn và đồng đội nhanh chóng triển khai “trận địa” lựu đạn dàn thun từ một lùm cây ven địa hình. Sau khi tính toán, điều chỉnh thật kỹ, Tư Bốn hạ lệnh “bắn”, sau khoảng 5 giây một tiếng nổ chát chúa vang lên từ nơi lính Mỹ đồn trú. Người “hoa tiêu” trên ngọn cây hô “trúng mục tiêu”, rồi nhanh chóng tuột xuống đất, cùng lúc đạn pháo từ bên ngoài bắn hú họa về phía địa hình.

Để rồi sau đó, Đại đội vệ binh của các ông liên tục làm cho đối phương điên đầu vì những trái lựu đạn “từ trên trời rơi xuống”. Dù hoàn toàn thô sơ, thao tác hoàn toàn thủ công, nhưng “đại bác dàn thun” của Tư Bốn đạt độ chính xác rất cao, thường là bắn trúng đích, đối phương rất hoang mang, không biết mục tiêu để dánh trả. Về sau cú bắn của các ông điêu luyện tới mức có thể điều khiển cho lựu đạn nổ trước khi chạm đất chừng vài mét, nhằm làm tăng độ sát thương.

Có lúc ông Tư Bốn đã kéo dài cự ly bắn lên đến 400 – 500 mét, nhưng sau đó ông mới “té ngữa” là cự ly tối đa cho phép bắn lựu đạn bằng dàn thun là chỉ khoảng 330 mét. Nguyên nhân là do thời gian cháy chậm của lựu đạn chỉ khoảng 7 giây, nếu bắn xa hơn, đạn chưa tới đích đã nổ trên không trung. Bây giờ nhớ lại, ông Tư Bốn vẫn còn thấy tiếc, vì ngày đó các ông đã không tìm cách kéo dài thời gian cháy chậm của lựu đạn để nâng cự ly bắn của lựu đạn dàn thun.

 “Lựu đạn dàn thun” từ Đội Vệ binh Tỉnh ủy của ông Tư Bốn đã nhanh chóng được các đơn vị chiến đấu trong toàn tỉnh Mỹ Tho học tập và sử dụng. Du kích ở tỉnh Bến Tre cũng sang Tiền Giang học tập cách đánh địch bằng lựu đạn dàn thun và đã về triển khai có hiệu quả. Ngày nay, nếu ai có ghé Bảo tàng tỉnh Tiền Giang và thấy mô hình dàn thun bắn lựu đạn trong chiến tranh, hãy tin nó do chính bàn tay của ông Tư Bốn  làm ra hoặc người thợ nào đó làm theo hường dẫn của ông!

Nổi tiếng không chỉ cái tên

Để đến được với Đội vệ binh Tỉnh ủy Mỹ Tho và nổi tiếng với cách đánh “lựu đạn dàn thun”, ông Tư Bốn đã trải qua nhiều thử thách khá lạ trong thời chiến. Năm 1961, khi mới 14 tuổi, cậu thiếu niên Nguyễn Văn Huy đã tham gia du kích xã. Bằng sự chiến đấu gan lì, không ngại tiếp cận đối phương, Nguyễn Văn Huy nhanh chóng được giao làm phó, rồi trưởng Công an xã, cái cơ duyên cho nghiệp công an sau này. Thế nhưng, được cầm súng chiến đấu mời là mơ ước của Huy.

Cuối năm 1966, Tiểu đoàn 514 của Tỉnh đội Mỹ Tho (Tiền Giang ngày nay) đón nhận thêm một số chiến sĩ mới. Trong số đó có 1 chiến sĩ trẻ mới 19 tuổi mà đã nhanh chóng nổi tiếng trong toàn tiểu đoàn. Nổi tiếng bởi sự chiến đấu gan lì và bởi cái tên khá đặc biệt: Tư Bốn.

Ngày ấy lính tráng trong tiểu đoàn không gọi nhau bằng tên, mà bằng thứ theo thói quen của dân Nam bộ, như anh Hai, chú Ba… Thế nhưng, quân số tiểu đoàn thì đông, mà thứ thì chỉ từ “hai” đến “mười ba”, “mười bốn” là cùng, vì vậy mà luôn có hàng chục người cùng thứ với nhau.

Để phân biệt người này với người kia, phải thêm vào số thứ tự cho từng người, như “Hai Một”, “Hai Hai”…Tương tự, cũng có “Tư Một”, “Tư Hai”,…, “Tư Bốn”. Cũng là “song trùng”, nhưng “Tư Bốn” nghe ấn tượng hơn các tên khác như “Hai Hai”, “Ba Ba”, “Năm Năm”…Lúc đó đâu ai ngờ cái tên “Tư Bốn” sau này sẽ có vị trí đặc biệt trong lịch sử tấn công tội phạm của ngành Công an nhân dân nước nhà.

Nhờ từng có thời gian là công an ở xã nhà Thanh Bình, cộng với thành tích chiến đấu gan lỳ, Tư Bốn được Ban chỉ huy Tiểu đoàn 514 chọn đi “thử thách” để bổ sung vào Đại đội Vệ binh của Tỉnh ủy (còn gọi Đội An ninh bảo vệ Tỉnh ủy), đơn vị khá “oai” trong thời chiến. Cách thử thách thời chiến đối với chiến sĩ thật là lạ: đưa về Đồng Tháp Mười hoang vu, giao cho mỗi người 6 mẫu ruộng cùng 2 con trâu và 1 khẩu súng, vừa chiến đấu vừa sản xuất giúp đơn vị tự túc lương thực.

Tư Bốn đã trải qua 18 tháng “tay cày tay súng” như thế. Đồng Tháp Mười mùa lũ bốn bề như biển, Tư Bốn phải đào đắp một gò cao để cùng đôi trâu lên đó tránh lũ, vừa thả câu giăng lưới để cải thiện cuộc sống và làm mắm gửi về đơn vị.

Mùa nước rút, một mình ông cày bừa, gieo sạ, chăm sóc, thu hoạch lúa, cũng để gửi về đơn vị.  Nhiều lúc một mình ông chống lại cả bầy trực thăng quần đảo trên đầu, bảo vệ đôi trâu và bảo vệ ruộng lúa sắp tới mùa thu hoạch. Cuối cùng, Tư Bốn là 2 trong 3 người vượt qua được thử thách khắc nghiệt để được nhận vào Đại đội vệ binh của Tỉnh ủy Mỹ Tho.

Trung tướng Nguyễn Việt Thành. Ảnh: Thanh niên
Trung tướng Nguyễn Việt Thành. Ảnh: Thanh niên


Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh ủy Mỹ Tho luôn bám địa bàn, kể cả khi đối phương đã “bình định trắng” thì cơ quan đầu não của cách mạng nơi đây cũng không di chuyển đến những nơi an toàn hơn. Vì vậy mà nguy hiểm luôn rình rập cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh. Để bảo vệ an toàn cho Tỉnh ủy, Đại đội Vệ binh ngày ấy đã tổ chức thành 3 trung đội, bảo vệ Tỉnh ủy thành 3 vòng từ trong ra ngoài. Khi bị đối phương tấn công, vòng ngoài cùng đánh địch đầu tiên, đối phương chỉ chạm được đến các vòng trong khi vòng bảo vệ bên ngoài đã bị đánh tan.

Trong thời gian các vòng bảo vệ đọ sức với địch, những người có trách nhiệm tìm phương án để cơ quan Tỉnh ủy di chuyển đến nơi an toàn. Trung đội của Tư Bốn được giao bảo vệ vòng ngoài cùng, vì vậy mà luôn chạm trán với đối phương đầu tiên mỗi khi có chống càn.

Chỉ sau vài trận “thử tài”, Tư Bốn đã được đề bạt làm trung đội phó, rồi trung đội trưởng. Thêm những trận đánh tan các cuộc tấn công của đối phương khi Tỉnh ủy chưa kịp lên phương án di chuyển đi nơi khác, Tư Bốn được thăng đại đội phó, rồi đại đội trưởng Đại đội Vệ binh Tỉnh ủy.

Giai đoạn từ sau Tết Mậu Thân 1968 trở đi, khi đối phương điên cuồng phản công quyết liệt, nhiệm vụ bảo vệ Tỉnh ủy càng nặng nề, nguy hiểm. Có lúc ngày nào Đại đội Vệ binh của Tư Bốn cũng “so găng” với đối phương. Có lần Tỉnh ủy bị bao vây ở xã Long Tiên, huyện Cai Lậy. Do có mật báo, đối phương biết cơ quan đầu não của kháng chiến đang đóng tại đây, nên địch tập trung lực lượng lớn bao vây khu vực rộng hòng bắt sống hoặc sát hại các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy.

Tư Bốn đã mở đường máu đưa Tỉnh ủy về nơi an toàn, bản thân ông đã cõng ông Tư Thắng, một cán bộ lãnh đạo cấp trên về tỉnh công tác và bị thương, vượt qua lưới đạn ra khỏi vòng vây. Sau đó Tư Bốn quay lại cùng đồng đội chống càn, trận đánh kéo dài suốt 22 ngày đêm, cả hai bên đều chịu không ít thương vong…

Theo thống kê của bộ phận tổng kết chiến tranh tỉnh Tiền Giang, Đại đội Vệ binh của Tư Bốn đã đánh tổng cộng trên 100 trận, tiêu diệt hơn 200 tên địch, làm bị thương 230 tên …Trong suốt cuộc chiến, nhiều chiến sĩ trong đại đội hi sinh, bị thương, bản thân đại đội trưởng Tư Bốn cũng nhiều lần bị thương, nhưng cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến của tỉnh luôn được bảo vệ an toàn tuyệt đối.


Sau khi cha và 2 người anh của mình lần lượt hi sinh trong những trận đánh ác liệt ở tại địa phương, Tư Bốn được Tỉnh ủy Mỹ Tho cho thôi “đối đầu” với các trận càn triền miên của đối phương. Một ngày đầu năm 1974, Tư Bốn đã bịn rịn chia tay hàng trăm đồng đội đã từng cùng nhau vào sinh ra tử trong Đại đội Vệ binh để vượt lộ 4, băng qua Đồng Tháp Mười về R học Trường Quân chính Trung ương. Nghỉ học sớm, sau mười mấy năm lăn lộn trong chiến tranh, đến lúc ấy Tư Bốn mới có điều kiện học tập nâng cao trình độ văn hóa, trình độ nghiệp vụ. Ông học miệt mài ngày đêm để bù lại thời gian dài chỉ biết chiến đấu.

Đầu năm 1975, tin chiến thắng từ các nơi cứ dồn dập bay về trường, các học viên sẵn sàng “gác bút nghiên” để bước vào trận đánh cuối cùng. Chuẩn bị vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, Trường Quân chính thành lập Tiểu đoàn 3 - Công an võ trang và Tư Bốn được cử là tiểu đoàn phó kiêm tham mưu trưởng tiểu đoàn. Sau hơn 1 năm rời vũ khí, Tư Bốn lại ngày đêm tập luyện đội hình, luyện tập chiến đấu, sẵn sàng tiến về giải phóng Sài Gòn.

Sáng 28.4.1975, Tiểu đoàn 3 của Tư Bốn cùng với quân chủ lực có cả xe tăng, đại pháo từ Sông Bé hành quân về hướng Sài Gòn. Một cuộc đụng độ lớn đã xảy ra ở Bến Cát, khi lực lượng mạnh của đối phương quyết “tử thủ” ở cửa ngõ Sài Gòn.

Đại quân của ta và lực lượng mạnh của đối phương đã đối đầu quyết liệt, xe tăng 2 bên quần nhau dữ dội, cùng với cuộc “đấu súng” của lính bộ binh 2 bên. Cuối cùng, “cửa ải” Bến Cát cũng đã thông, hàng ngàn tù binh bại trận được “giáo dục, tha cho về nhà”, đại quân của ta tiếp tục tiến về Sài Gòn như thác lũ. Ông Tư Bốn đã đắp vội mấy nấm mồ cho đồng đội hi sinh trong cuộc “đấu súng” vừa rồi, họ không được may mắn như ông sắp được chứng kiến giờ phút hệ trọng của lịch sử, được về giải phóng Sài Gòn!

Sáng sớm 30.4, Tư Bốn cùng đồng đội trong Tiểu đoàn 3 tràn vào đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Các ông đã không mấy khó khăn để làm chủ sân bay. Tại sân bay, ông đã chứng kiến hàng chục máy bay Mỹ bị phá hủy trong cuộc ném bom chiều 28.4 của Phi đội Quyết Thắng do Nguyễn Thành Trung dẫn đầu. Bàn giao sân bay cho bộ phận khác, trưa cùng ngày Tiểu đoàn 3 của Tư Bốn hành quân ra đánh chiếm Trường huấn luyện Quang Trung.

Hàng vạn quân trang quân dụng bị vứt lại đầy trường sau khi các “tân binh” đang học “ba tháng quân trường” vui mừng trở về quê thoát cảnh đi lính. Đến chiều, Tư Bốn cùng tiểu đoàn tiến vào chiếm giữ Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn, một trong những sào huyệt cuối cùng của đối phương. Các ông không gặp bất cứ sự kháng cự nào khi vào chiếm tổng nha, thậm chí còn được đón tiếp như những người hùng.

Ông Tư Bốn kể: “Ấn tượng khó quên nhất của tôi khi tiến vào chiếm Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn là cả trăm nữ nhân viên trong trang phục áo dài thật đẹp đứng tập trung trước trụ sở chờ cách mạng vào để bàn giao. Sau khi bàn giao xong, họ đã về nhà. Đến lúc đó tụi tui mới để ý thấy có gần 100 chiếc xe Jeep đang nổ máy ở sân kho mà không biết nổ máy để làm gì, sau này mới nghĩ có lẽ họ cho chạy bảo trì. Lúc đó tụi tui không ai dám đụng vào, cũng không biết tắt máy xe. Cứ vậy xe chạy tới tối, tới khuya khi hết xăng rồi tự tắt”.


Song Kỳ

 

Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn copy link
Tác giả:
Từ khóa:
Tin nên đọc