Mận là cây ăn quả được trồng nhiều ở vùng miền núi phía Bắc như Sơn La, Sapa, Bắc Hà… Cây thân gỗ, cành nhẵn có màu nâu, đỏ, bóng. Lá hình mũi mác, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông. Hoa màu trắng thường tạo thành cụm 3 hoa. Quả tròn, nhẵn khi chín có màu sắc thay đổi thành tím hoặc màu vàng lục. Mận là loại quả mùa hè mọng nước, vào vụ từ tháng 5 – tháng 6, vừa ngọt vừa chua rất được ưa thích. Không chỉ chứa nhiều dưỡng chất tốt cho sức khoẻ mà các bộ phận cây mận đều được dùng làm thuốc.
Quả mận
Quả mận cho vị thuốc tên lý tử, thịt quả chứa các acid amin: asparagin, glutamine, glycine, serin, alanin, đường, acid hữu cơ, vitamin C… Theo Đông y quả mận vị ngọt, chua, tính bình, quy vào hai kinh can, thận. Tác dụng thanh can, điều nhiệt, giải tà độc, hoạt huyết, sinh tân, chỉ khát, lợi thủy.
Trong sách cổ của Trung Quốc (Điền Nam bản thảo, Tuyển Châu bản thảo) có ghi chép: Lý tử trị các chứng hư lao, nóng trong xương (cốt chưng, triều nhiệt), chữa tiểu đường (tiêu khát), bụng tích nước, bệnh gan, thủy thũng. Quả mận dùng ăn trực tiếp hoặc giã lấy nước uống. Người tỳ vị hư yếu (người mệt mỏi, uể oải, ăn không ngon, đi ngoài phân nát…) không nên dùng.
Nhựa mận
Tên thuốc gọi là lý thụ giao thường dùng nhựa khô ở thân cây mận, chủ trị mắt có màng, tác dụng giảm đau, tiêu sưng, thúc sởi mọc. Liều dùng 8-16g sắc uống.
Hạt mận
Hạt mận cho vị thuốc tên lý tử nhân (hay lý hạch nhân), vị ngọt, đắng, tính bình, quy vào kinh can. Công năng hoạt huyết, tán ứ, nhuận tràng thông tiện. Dùng trong các trường hợp vấp, ngã mà bầm tím, sưng đau, vết côn trùng cắn, các chứng ho đàm, thủy khí ủng trệ, đại tiện bí táo.
Thường dùng dưới dạng thuốc sắc, ngày uống 8-12g. Đối với các vết thương thì dùng ngoài, lấy nhân hạt đem nghiền thành bột rắc hoặc đắp lên vết thương, vết côn trùng cắn.
Trường hợp mặt bị sạm đen dùng bột nhân hạt mận nghiền mịn trộn với lòng trắng trứng đắp ngày 1-2 lần, một liệu trình 5-7 ngày. Người tỳ vị yếu, đi ngoài lỏng, thận hư, di tinh, phụ nữ có thai không nên dùng.
Vỏ rễ mận
Vỏ rễ mận cho vị thuốc gọi là lý căn bì (vỏ trắng rễ cây mận). Vị đắng, mặn, tính lạnh, quy kinh can. Tác dụng thanh nhiệt, giải trừ uất nhiệt do phong mộc, chữa tiểu đường, tâm phiền, các trường hợp khí hư, đau răng, lở loét…
Lá mận
Lá mận cho vị thuốc tên lý thụ diệp có vị ngọt, chua, tính bình. Công dụng trị các chứng sốt cao, kinh giật ở trẻ, làm giảm ho, điều trị các vết thương. Có thể sắc uống liều dùng 8-12g lá khô. Dùng ngoài nấu lấy nước, bỏ bã tắm cho trẻ hoặc giã lấy nước cốt lá mận tươi thấm vào chỗ sưng đau.
Rễ mận
Rễ mận cho vị thuốc lý căn, thường thu hái vào tháng 9-10 hàng năm. Rễ mận tính mát, hơi lạnh, vị đắng, sáp. Tác dụng thanh nhiệt giải độc dùng trong các chứng tiểu buốt, tiểu dắt do thấp nhiệt, các trường hợp đi lỵ ra máu, bệnh tiêu khát(tiểu đường). Trẻ em sốt nóng, mụn nhọt.
Dùng trong sắc uống ngày 8-12g. Dùng ngoài sao tồn tính, nghiền thành bột, đắp hoặc rắc lên vết đau. Trường hợp đau nhức răng: Rễ mận 30 g, đem sắc đặc với 100ml nước rồi ngậm khoảng 5 phút mỗi sáng sẽ giúp cải thiện đau nhức răng hiệu quả.