Có lẽ khó có ai cầm được nước mắt khi chứng kiến cảnh khốn khó của gia đình này. Trong gian chòi tạm bợ ấy, người cao tuổi nhất làm ông, nhỏ nhất là những ấu nhi còn đỏ hỏn.
Cả 5 con người vừa già vừa trẻ ấy phải lấy trời làm màn, mặt đất làm chiếu, lay lắt qua ngày đoạn tháng ngay bên vệ đường.
Ở nhờ trên nền đất cũ
Ông Văn Bá Hiếu (SN: 1955, Vĩnh Linh, Quảng Trị) người lớn tuổi nhất trong nhà, vừa làm cha, vừa gánh trách nhiệm làm ông. Đã mấy tháng nay, hầu như ông không ngủ vì phải ngược xuôi lo toan.
Ông mang tướng của người nghèo khó, dáng lòng khòng, gầy rọp, da vàng xanh như tàu lá, đầu tóc rối bù, đôi mắt lúc nào cũng đục nhòe như người vừa khóc.
Ngồi bệt bên hòn đá kê tạm, tựa đầu vào cột căn chòi, ngước mắt về xa xăm, hướng nhìn thẳm sâu vào vô vọng, trên gương mặt cằn cỗi của người đàn ông ngoài 50 khắc khổ, đan đầy vết chân chim, hằn rõ những lo âu, ông buồn vì đời sao quá bất hạnh.
Ngẫm đoạn đời đã qua, ông thấy chỉ tràng giang những tháng ngày buồn khổ, sống đến tuổi bóng xế vẫn không thoát vận nghiệp.
Nhưng ông thương con, xót cháu hơn là ngồi oán thán cuộc đời mình, bởi hơn ai hết ông biết những ngày sắp tới con ông, cháu ông sẽ còn lắm cơ cực.
Ông Hiếu cùng hai người con bạc phận bên căn lều dựng tạm ngay tại vệ đường. |
Ông bảo, số ông trời phó gian nan, mệnh kiếp bạc bẽo. Quê mãi ngoài miền biển Vĩnh Linh, từ những năm 80 của thế kỷ trước, ông cùng dòng người nghèo khổ mang khát vọng thoát nghèo di cư vào Nam theo diện kinh tế mới.
Ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, cả gia đình ngược xuôi khắp nơi, cuối cùng đổ bến tại huyện Đất Đỏ.
Cùng thời với ông, người ta đã có nhà cửa đàng hoàng, con cái đề huề thành đạt, riêng ông vẫn vương vấn hai chữ nghèo, bất hạnh cuộc đời như những nấc thang trắc trở đi đến tận cùng của đau khổ.
Mặc dù ngày trước ông và vợ cũng quần quật quanh năm, làm lụng đủ nghề, những đứa con ông biết đi làm mướn cho người ta từ lúc đến tuổi đi học.
Nhưng bất hạnh như không hẹn trước đổ xuống dồn dập, khiến gia đình ông gặp cảnh tan tác.
Ông nhớ lại: “Nếu không có cái tai họa ập đến vợ tôi, thì chắc cha con tôi bây giờ không ra nông nỗi này”. Ấy là ông đang nói về cái ngày ông bán đi căn nhà, mảnh đất hòng cứu vợ mình thoát cơn bạo bệnh.
Ngày đó nhà ông nghèo, nhưng vẫn có cái ăn chứ không phải cảnh đong bữa như bây giờ.
Ông có mảnh đất ngay sau lưng tấm bạt rách nơi ông ở hiện tại. Đất cũng khá rộng, mua bằng số tiền bao năm vợ chồng tích góp. Đang yên đang lành thì vợ ông bỗng mắc chứng bệnh nhiễm vi trùng máu quái ác.
Thương vợ, ông mang hết đồ đạc trong nhà bán chạy tiền thuốc, nhưng bệnh vẫn không chút tiến triển.
Vay mượn mãi đến lúc không có khả năng hoàn trả, hễ thấy ông gõ cửa vay tiền, nhà nào nhà ấy tránh như tránh hủi.
Cũng dễ hiểu, vì người ta có của đó, tiền đó nhưng rồi chẳng ai đủ can đảm đưa tiền cho người đang rơi vào tận cùng của túng quẫn. Nhìn xuôi chỉ còn mảnh đất, căn nhà, nhìn ngược tính mạng vợ đang treo sợi tóc.
Trong tình cảnh đó, ông chỉ có một suy nghĩ: miễn cứu được vợ thôi, sau này dẫu có tha hương làm thuê cũng chấp nhận.
Ông quyết định kêu người bán tháo, nhưng bất hạnh thay, khi hết tiền cũng là lúc vợ ông chết, nỗ lực của người chồng khốn khổ vẫn không cứu được vợ. Không nhà không cửa, ba đứa trẻ và một người đàn ông góa vợ giã từ quê hương, tứ tán làm thuê xứ người.
Và, 20 năm sau, khi chuẩn bị bước vào bóng xế của cuộc đời, người ta thấy người đàn ông ấy hội ngộ với các con mình trên mảnh đất xưa, nhưng trong căn chòi tạm, ngay bên vệ đường, trong niềm đau khổ ngút ngàn.
Tột cùng nỗi bất hạnh
Ông nói như oán phận: “Bất hạnh cứ như những trận bão liên tiếp giáng xuống gia đình tôi chú ạ”. Trước tết Nhâm Thìn, đang yên bình thì Văn Thị Ngọc Thương (32 tuổi), người con gái đầu của ông, đang làm thuê bên Lào điện về báo bị chồng bỏ rơi.
Toàn bộ số tiền tiết kiệm bấy lâu trong thẻ của cô đã bị gã chồng đểu cáng lừa rút sạch, sau đó bỏ đi đâu không rõ.
Gã ta chỉ để lại vỏn vẹn mấy trăm nghìn, cô khóc hết nước mắt nơi xứ người, rồi thanh toán tiền nhà trọ, một mình tủi nhục ôm bụng bầu đón xe về Vũng Tàu.
Thương cho biết, đến mãi mấy tháng sau cô mới nhận được cuộc điện thoại của một người phụ nữ, người này cho biết “người đầu ấp tay kề” bao năm của mình đã có gia đình và con cái ở Đồng Nai.
Nghe tin ấy cô chỉ muốn tìm đến mà cấu xé, giết chết gã Sở khanh đốn mạt đó.
Về Vũng Tàu cha con gặp nhau chỉ biết khóc. Không nhà cửa, không bà con thân thích, chẳng ai tin cậy để nương nhờ, hai cha con lục đục về lại ngôi nhà trước kia đã bán và hết lời khẩn thiết chủ nhà.
Nhưng dù nhà cửa người ta mua để đó chẳng ai ở, vậy mà họ cũng lắc đầu: “Người mới sinh nếu vào nhà ai, nhà đó gặp vận sui, chẳng bao giờ làm ăn khấm khá được”.
Thấy ông cầu khẩn quá, nể tình chủ cũ, người ta mới động lòng đồng ý cho cha con ông gá thân ngoài cổng, ngay sát một bên vệ đường.
Đất người ta cho mượn tạm, còn lại nơi tá túc ông tự liệu. Ông lại tự tìm cây dựng “nhà”, đi xin bạt cũ về che mái, làm nơi trú tạm bợ cho đứa con bất hạnh và đứa cháu tội nhiệp.
Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ cho ông rối như tơ vò, bẵng đi 2 tháng, đứa con gái thứ hai của ông lại từ Bình Dương tìm về, mang theo một cái bụng. Ông tối sầm mặt mũi khi biết, chỉ còn vài ngày nữa là con ông phải sinh.
Lần này “thằng rể” vô trách nhiệm của ông cũng “quất ngựa truy phong”, để lại người vợ bụng mang dạ chửa, chỉ vì một lý do: “Không biết đẻ con trai”. Một lần nữa 3 con người bất hạnh ôm lấy nhau nuốt nghẹn, khóc đến cạn dòng nước mắt.
Từ ngày thêm sản phụ thứ hai, chiếc giường của người chị phải ngăn thêm ra, gian chòi nhỏ bên vệ đường thêm tù bức và hẹp lại. Phụ nữ mới sinh kị nhất sương gió, nhưng đến nơi che nắng, tránh mưa còn khó thì lấy đâu ra phòng kín? Ông đành gõ cửa nhà người ta xin về những manh ri đô cũ, ga giường thừa, bạt bỏ đi về căng lại để làm vách.
Hai chị em thiếu phụ bạc mệnh đều bị chồng bỏ rơi đang cần sự giúp đỡ. |
Vậy nên, tất cả những thứ “tài sản” trong “nhà”, ông có được là nhờ lòng trắc ẩn của người đời. Người ta có thêm cháu thì vui vẻ, hạnh phúc, còn riêng ông lại nghìn buồn, vạn lo. Một mình quay quắt nuôi hai sản phụ, hai đứa trẻ sơ sinh.
Với một người ở cảnh “thân cô thế cô” như ông quả thực là gánh nặng tưởng như không thể cáng đáng nổi.
Tận cùng của túng bấn, 5 con người và 1 số 0 tròn trĩnh. Ông bảo, giờ đây không còm dám nghĩ khát vọng cao xa về cái nhà, nơi ở mà chỉ lo sao đủ miếng ăn trước mắt.
Người ta khi sinh được bồi bổ dinh dưỡng này nọ, còn con ông vẫn phải nhịn đói khi đến bữa.
Đêm đêm nghe các cháu khóc thét vì đói sữa, lòng ông lại đau như cắt, ông chỉ biết bất lực ngẫm phận mình sao trớ trêu. Một khổ cảnh làm rơi nước mắt bất cứ ai chứng kiến.
Chúng tôi hỏi: “Cha con ông ở nhờ bên vệ đường này bao lâu rồi? Tại sao không nhờ chính quyền giúp đỡ?”
Ông đáp lại một cách trần trụi rằng: “Từ trước Tết Nguyên Đán chúng tôi đã dựng chòi, nhưng đến nay chính quyền chưa thấy ai”.
Ông giải thích: “Vì chúng tôi rời quê đi làm ăn quá lâu, nên khi về có lẽ chính quyền không biết”. Cũng có thể vì lý do trên.
Nhưng ở khía cạnh khác, câu hỏi đặt ra là đã hơn 8 tháng trôi qua tại sao một gia đình vô gia cư, với 2 sản phụ vào thế đường cùng rất cần sự giúp đỡ, gia đình ấy đang vạ vật, ngày ngày bên vệ đường mà người quản lý chính quyền không ai hay?
Điều ước của 3 người khốn khổ
Để nuôi 2 đứa con bất hạnh, ông phải dốc hết “vốn” vào “kinh doanh” vặt bên đường, một hàng mít quả và một hàng “tạp hóa” vặt. Nhưng người đến mua vì lòng thương hại thì đúng hơn.
Thấy chúng tôi ghé, ông mời mua, dưới nền nhầy nhụa bùn đất có mấy trái mít thối nửa, ông bối rối gãi đầu bảo: “Mít lấy mối mãi trong vườn sâu của đồng bào dân tộc.
Từ mấy hôm trước, nhưng giờ vẫn chưa bán hết”. Ông còn có một cái tủ kính đựng mấy bao thuốc lá, dăm chai nước ngọt nhưng trưng như có lệ, chẳng ai thèm để mắt, có ngày chẳng bán được thứ hàng gì. Một hàng mít, một hàng “tạp hóa”, cả gia đình 5 cái miệng trông chờ tất cả vào đó.
Ông bảo, thu nhập mỗi ngày chỉ mấy chục bạc, số tiền đó ông dành tất cả mua gạo để chăm hai người con ông vừa sinh nở.
Những bữa cơm ăn không dám no, ông sợ rằng lạm vào khẩu phần của 2 đứa cháu ngoại, người ta thấy cay cay trong tình cảm “cá chuối đắm đuối vì con” của ông Hiếu.
Giờ đây ước mong lớn nhất của 3 con người khốn khổ là có được căn nhà che mưa gió khi mùa mưa đang tới. Những bữa cơm no cho hai sản phụ, để hai trẻ sơ sinh không còn những đêm khóc dấm dứt vì đói sữa.
Qua trao đổi của chúng tôi với chính quyền ấp Sông Cầu (xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức, Bà Rịa- Vũng Tàu), được biết, gia cảnh của ông Văn Bá Hiếu đang rất khốn khó. Hiện tại, ông phải một mình nuôi 2 người con gái vừa sinh nở tại căn lều tạm trú tại tổ 13 (thôn Sông Cầu, xã Nghĩa Thành, Châu Đức, Bà Rịa –Vung Tàu). Vậy nên, để giúp gia đình ông qua cơn khốn khó, rất mong nhận được lòng hảo tâm từ cộng đồng. Mọi sự giúp đỡ theo địa chỉ: Văn Bá Hiếu Tổ 13, ấp Sông Cầu (xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức, Bà Rịa- Vũng Tàu). |
- Mã Phong
[links()]