Đã qua tuổi 60, giọng đã khàn, nhưng đầu dây bên kia, người đàn ông “gàn dở nhất thế giới” mà chúng tôi từng biết vẫn hồ hởi lắm. Công cho biết đang có mặt ở Hoá Sơn, sẽ xuống Đồng Hới thăm nhà chúng tôi. Giọng ông chắc nịch: “Lần này chắc rồi. Tôi đã mở được cửa hầm vàng. Không thể nhầm đi đâu được nữa”!
Chúng tôi không mấy lưu tâm đến thông tin động trời mà ông cung cấp, chỉ thật lòng mời ông ghé thăm nhà và có ý chờ đợi. Dù sao, gần 30 năm, hàng chục lần gặp gỡ chuyện trò, giữa Nguyễn Hồng Công với chúng tôi cũng đã hình thành một mối tương giao bè bạn, dù mục đích và tuổi tác không cùng.
Nhưng Nguyễn Hồng Công chỉ hẹn mà không đến. Chúng tôi nghĩ bụng, thôi thì để hôm nào tiện đường lên Tuyên Hoá, tiện đường sẽ vào Hoá Sơn thăm “lão già gàn”.
Chưa kịp đi, bất ngờ, chúng tôi nhận thêm một thông tin động trời: Ngày 16-6-2011, Nguyễn Hồng Công đã bất ngờ thảo tờ trình gửi các cấp chính quyền tỉnh Quảng Bình.
Trong tờ trình, ông tuyên bố: "Qua 14 năm trời ròng rã, suy ngẫm, nghiên cứu, đào bới, tìm kiếm, nay tôi đã tự giải mã và tìm ra được nơi cất giấu của cải của vua Hàm Nghi”. Kèm theo, ông cũng gửi theo một bản ước tính chi phí kèm theo đề nghị… chia phần: “Để trả lời được bí ẩn công trình này, tôi đã phải trả giá gần 30 năm và tiêu tốn gần 2 tỉ đồng. Vậy để đảm bảo được công sức và tiền của đầu tư gần 30 năm qua, tôi đề nghị tỉnh cho phép tôi được hưởng 20% tổng trị giá của kho báu, thay vì 10% mà ông Trần Sự (Chủ tịch UBND tỉnh trước đây) ký năm 1989”.
Không những thế, kẻ săn kho báu Nguyễn Hồng Công còn tỏ ra chắc ăn như bắp, khi thẳng thừng đặt thời hạn: “Trong thời hạn 50 ngày phải thanh toán xong kể từ ngày lấy được tài sản kho báu chuyển về kho của tỉnh”. Và, để tránh mọi phiền toái, bất trắc có thể xảy ra khi cầm được trong tay một kho báu không lồ, Nguyễn Hồng Công còn đề xuất: “Đề nghị tỉnh cho người giám sát và bảo vệ tôi trong 15 ngày. Nếu có gì sai trái tôi hoàn toàn chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật hiện hành”!
Dù đã biết Nguyễn Hồng Công hàng chục năm, không lạ gì sự khát khao, say mê đã không ít lần trở thành hoang tưởng của ông, nhưng trước sự đoan quyết của ông thể hiện bằng văn bản, chúng tôi vẫn không khỏi bán tín bán nghi. Thế nhưng, cho đến ngày 22-6-2011, mọi kết quả xác minh của chúng tôi đều chỉ thu được một câu trả lời duy nhất: “Không có gì”. Ông Đinh Quang Đại, Chủ tịch UBND xã Hóa Sơn, khẳng định: “Hoang tưởng! Xã đã cho người lên tận nơi kiểm tra. Có kho báu, vàng bạc chi mô. Ông ấy chỉ mở được một cái… hàm ếch. Mấy cái ngách kiểu này, núi đá vôi nơi mô chẳng có!”
Đường vào Hoá Sơn, nơi Nguyễn Hồng Công đào kho báu vua hàm Nghi |
Vậy là rõ. Dường như hoang tưởng mới sắp nối dài một bi kịch cũ. Tất nhiên, đó chỉ là cách nghĩ khách quan của người ngoài cuộc. Còn với Nguyễn Hồng Công, khát khao của ông đã khiến lý trí hoá thạch. Ngoài sự hiện hữu của kho báu, ông sẽ không để lọt tai bất kỳ một bàn tán, khen chê hay hoài nghi nào khác.
Gàn, mất trí, cố chấp, mù quáng… ai muốn gọi bằng gì cũng mặc. Bởi lẽ, xuất phát điểm, cuộc săn tìm kho báu của Nguyễn Hồng Công đã dựa trên cả tư liệu lịch sử lẫn những bằng chứng xác thực khá rõ ràng.
Nguồn cơn lịch sử
Ngày 19-7-1883, Vua Tự Đức băng hà. Di sản mà ông để lại là một quốc gia ly loạn và một vương triều đổ nát. Trước sự uy hiếp của thực dân Pháp, họa vong quốc gần kề, triều đình nhà Nguyễn bị phân hóa sâu sắc. Trong ba “cố mệnh đại thần” được di chiếu của Tự Đức giao trọng trách Phụ chánh đại thần thì Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường là chủ soái của phe chủ chiến, trong khi Trần Tiễn Thành cầm đầu phái chủ hòa.
Chủ trương chống Pháp, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường đã thẳng tay loại trừ bất kỳ ai chống lại hoặc ngăn cản họ, bất kể người đó là dân thứ hay đại thần, thậm chí cả... vua!. Trong vòng một năm, lần lượt 3 tân vương đã bỏ mạng trong tay Tường, Thuyết. Dục Đức bị truất ngôi, tống giam và giết chết chỉ sau 3 ngày trên ngôi báu. Hiệp Hoà, Kiến Phúc bỏ mình vì những chén thuốc độc được dâng vào tận long sàng.
Hoàng tử Ưng Lịch không phải là con đẻ, cũng chẳng phải con nuôi của vua Tự Đức, lẽ ra hoàn toàn không liên quan gì đến ngai vàng. Nhưng trước khi được rước về cung học tập, ông hoàng trẻ này đã có nhiều năm sống bình dị lẫn giữa bách tính lê dân nên ít nhiều cũng đã kịp thấm được nỗi niềm một kẻ mất nước, mới 12 tuổi đã kịp phát lộ ý thức chống Tây. Cây non dễ nắn, Tường, Thuyết đã quyết định chọn Ưng Lịch đặt lên ngôi báu, lấy hiệu Hàm Nghi (8-1884) để dễ bề đeo đuổi mục tiêu kháng Pháp.
Trước khi Hàm Nghi lên ngôi một năm, tháng 8-1883, Pháp đã đưa tàu chiến vào Thuận An và nhanh chóng chiếm cứ cửa biển này, từ đó kéo quân xộc thẳng về kinh đô và đồn trú ngay trên đất Huế.
Tướng lĩnh Pháp ngang nhiên ra vào hoàng thành, ngang nhiên nhúng tay can thiệp vào việc triều chính của đất nước. Không nhẫn nhịn lâu hơn được nữa, ngày 23-5-1885, Tôn Thất Thuyết đã hạ lệnh đánh úp quân Pháp đồn trú tại kinh đô. Không thắng nổi đạo quân thực dân với ưu thế vũ khí vượt trội, đêm 7-7-1885 (có tài liệu ghi là 5-7-1885), kinh đô thất thủ.
Suối Hoá Sơn, nơi từng phát hiện vàng thoi năm 1965 |
Tôn Thất Thuyết đã bí mật phò Vua Hàm Nghi rời kinh rút lên căn cứ Tân Sở đã lập sẵn từ trước tại xã Bảng Sơn (nay là xã Cam Nghĩa) huyện Cam Lộ, Quảng Trị. Khi đi, ngoài bạc vàng châu báu, Hàm Nghi hoàng đế đã không quên mang theo kim ấn “Ngự tiền chi bảo” – bảo vật truyền ngôi của nhà Nguyễn. Tại Tân Sở, ngày 13-7-1885, đích thân nhà vua trẻ đã tự tay đóng ấn “Ngự tiền chi bảo” lên những tờ Hịch Cần Vương, kêu gọi sĩ phu và dân chúng mọi miền đứng lên chống Pháp.
Căn cứ Tân Sở tuy được xây dựng dưới sự đốc thúc của hàng loạt trọng thần giàu kinh nghiệm và tâm huyết như Phụ chánh Nguyễn Văn Tường, Phò mã Đặng Huy Cát, Tham biện Tôn Thất Lệ, Phó sứ Sơn Phòng Nguyễn Tuy... nhưng quy mô vẫn còn quá nhỏ, địa thế chưa đủ hiểm trở, xa xôi để cầm cự lâu dài.
Bị Pháp truy đuổi gắt gao, Tôn Thất Thuyết lại tiếp tục phò giá Hàm Nghi vượt lên phía thượng ngàn miền tây Quảng Trị, nay ở Đắkrông, mai sang Hướng Hóa từ đó vượt sang tạm lánh tại Châu mường Mahasay của Lào.
Khi Phan Đình Phùng hưởng ứng chiếu Cần Vương khởi nghĩa, lập xong căn cứ Vụ Quang, Vua Hàm Nghi lại vượt biên giới về đóng tại căn cứ núi Ấu (Hương Khê, Hà Tĩnh). Thực dân Pháp đã xua đám tay sai của Tổng đốc Hoàng Cao Khải đuổi riết. Đoàn tùy tùng lại tiếp tục hộ giá Hoàng đế vượt đèo Quy Hợp vào đất Tuyên Hóa, Quảng Bình.
Có thời gian, đoàn ngự giá hạ trại tại chân núi Mã Cú, nay thuộc địa phận xã Hóa Sơn, Minh Hóa, Quảng Bình. Ngày 26-9 năm Mậu Tý (1888), một kẻ túc mã manh tâm là Trương Quang Ngọc đã làm phản, dẫn binh giết sạch đoàn hộ giá, bắt Vua Hàm Nghi dâng cho giặc.
Ngay sau đó, Trương Quang Ngọc rồi thực dân Pháp đã vội vã lục xét đào xới khắp bốn xung quanh hòng tìm cướp ngọc ngà châu báu mang theo nhưng chỉ uổng công. Không ngọc tỉ, kim ấn, không bạc nén, vàng thoi, trong người đức vua chỉ còn lại một ít bạc lẻ và vài ba tấm bản đồ đánh dấu một vài kho báu nào đó được chôn lại ở kinh thành và một số địa điểm khác trên vùng thượng đạo các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh. Có điều, nếu không phải là người trực tiếp chôn giấu, kẻ ngoài cuộc có cầm bản đồ trên tay cũng không tài nào xác định nổi vị trí của những tấm bản đồ vẽ sơ sài ấy...
Vua Hàm Nghi thì trước sau không chịu nói thêm lấy nửa câu. Toàn bộ bí mật những kho báu đã vĩnh viễn theo ông vua bại vong về bên kia thế giới trên xứ người Algérie vào năm 1944.
Hầu hết những cuộc săn lùng đã được phát hiện hoặc công bố công khai đều giống nhau ở điểm: dấu vết làm chỗ dựa hầu như đều khá mơ hồ, nhuốm đầy chất huyền thoại hơn là cứ liệu đáng làm cơ sở tin cậy. Dù vậy, kho báu vua Hàm Nghi vẫn là điều có thật, không ai có thể bác bỏ.
Đầu tiên phải kể đến sự tồn tại của các “kho dự trữ quốc gia” theo cách gọi ngày nay tại căn cứ Tân Sở. Ngay từ thời Tự Đức còn tại vị, sự uy hiếp liên tục và ngày càng căng thẳng của quân Pháp đã đẩy triều đình Huế vào thế buộc phải “tích cốc phòng cơ”, xây dựng một cơ sở dự trữ làm hậu lộ cho kinh đô Huế. Theo chỉ dụ của Tự Đức, vùng Cùa, Cam Lộ, Quảng Trị được chọn làm đất lập Tân Sở. Triều đình chiêu mộ dân cư lên vùng này khẩn hoang, lập đồn điền, dựng kho dự trữ...
Tháng 8-1883, Pháp đánh Cửa Thuận, việc xây dựng căn cứ Tân Sở càng được đẩy mạnh. Triều đình cho dựng thành, trồng tre, đào hào làm chiến lũy, đồng thời cho chở lương thực từ các tỉnh Hà – Nam – Ninh của đồng bằng Bắc Bộ theo đường biển vào Cửa Việt rồi đưa lên Tân Sở.
Từ kinh đô, rất nhiều vàng bạc, khí giới cũng được đốc thúc đưa ra chôn giấu tại đây. Riêng vũ khí, số lượng chuyển đi rất lớn, mất ròng rã 3 tháng mới hoàn tất. Các triều vua sau Tự Đức vẫn tiếp tục chủ trương này. Sách Đại Nam thực lục xác nhận: “Di chuyển Nha đóng ở Sơn Phòng, Quảng Trị có thể làm hậu lộ cho kinh đô (bấy giờ là tháng 12 năm Quý Mùi - 1883). Chuẩn cho quan Sơn Phòng này xem xét lại tường tận, tăng thêm kinh lý...”.
Đầu năm 1885, về cơ bản, các công trình phòng ngự quân sự đã xem như hoàn tất. Thành Tân Sở có chiều dài 548m, rộng 418m, tổng diện tích khoảng 23 héc-ta bao quanh bởi một vòng hào khá sâu, rộng 10m.
Theo dự định của Tôn Thất Thuyết, 1 triệu lượng (khoảng 33 tấn) vàng ròng, bạc nén sẽ được chuyển từ kho Phủ Nội vụ trong kinh thành Huế lên Tân Sở. Nhưng mới chuyển được 1/3, khoảng 11 tấn thì giao tranh với Pháp đã nổ ra tại kinh thành nên phải tạm ngừng.
Kho báu khổng lồ này không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng mang theo kịp bước chân bôn tẩu của Vua Hàm Nghi, nghĩa là chúng phải được chôn giấu lại ở đâu đó (có thể nhiều nơi) trên các nẻo thượng đạo Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, không loại trừ cả khu vực Châu mường Mahasay mà hoàng đế đã ruổi qua.
Nguyễn Hồng Công và tác giả tại căn lều ở nơi đào vàng năm 1999 |
Khoảng đầu những năm 1980, một số đồng bào dân tộc Vân Kiều ở gần cầu Đắkrông, Quảng Trị, trong khi đi bắt cá khe đã tình cờ phát hiện trong một hốc cây lớn chìm dưới suối cả một kho tàng gồm toàn tiền cổ bằng vàng ròng và những thoi vàng nặng 1 lượng.
Cùng thời gian này, một đoàn khảo sát của Bảo tàng Trung ương đã tình cờ phát hiện được tại bản Sê Bu, xã Hướng Phùng, Hướng Hóa, Quảng Trị một chiếc áo dài màu đen, lót lụa đỏ, thêu kim tuyến và hình rồng 5 móng được cho là áo bào của vua Hàm Nghi (dưới triều Nguyễn, chỉ có áo vua mới được thêu rồng 5 móng, từ hoàng thái tử trở xuống chỉ được phép thêu rồng 4 móng).
Theo tài liệu, chiếc áo bào này vua Hàm Nghi đã cởi tặng cho một người Vân Kiều tên là Ku Xin, vì đã có công giúp đỡ đoàn hộ giá.
Tương tự, tại thôn 5, xã Hải Phúc (huyện Đắkrông) sát với vùng căn cứ Tân Sở, Bảo tàng tỉnh Quảng Trị đã phát hiện được trong gia đình Vân Kiều một chiếc mâm đồng cổ rất lớn chạm 2 con rồng 5 móng và 5 chữ Hán: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh.
Dấu tích về kho báu Vua Hàm Nghi dường như được dân chúng phát hiện khá nhiều lần với tiền vàng số lượng lớn ở huyện Minh Hóa, Quảng Bình. Theo ông Thái Xuân Bạ, nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, khoảng đầu những năm 50 của thế kỷ trước, bố ông tham gia dân quân xã đã từng được huy động đi thu gom “vàng vua Hàm Nghi” do dân xã Trung Hóa phát hiện được.
Tổng cộng có 3 nong phơi lúa tiền chữ “Đại” bằng vàng ròng, mỗi đồng nặng 12 chỉ được gom về sân nhà ông Bạ trước khi đem giao nộp cho chính quyền. Lợi dụng lúc người lớn không chú ý, ông Bạ và một số trẻ con hàng xóm đã “nhón” đi mỗi người khoảng 10 đồng để dành... đánh đáo.
Một trường hợp khác xảy ra tại xã Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, năm 1956, sau trận lụt lớn, người dân trong xã phát hiện ra có vô số tiền vàng từ một hốc đá trôi ra suối bèn hè nhau mang rổ rá đi vớt, thu được cả tạ. Sau đó được chính quyền vận động, dân chúng đã tự nguyện đem nộp lại toàn bộ cho nhà nước.
Gần hơn, giữa tháng 4-2003, một đám trẻ chăn trâu đã tình cờ phát hiện được tại hang Lèn, xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình một chiếc tráp gỗ, bên ngoài khắc chữ Hán và hoa văn nhũ vàng rất đẹp. Khi được những em nhỏ này đưa xuống núi, chiếc tráp đã tự động mục rã ra. Bên trong tráp có một quả cau bằng kim loại màu đen, hai lư hương bằng đồng và 2 chìa khóa kiểu cổ. Những đứa trẻ này vô tư đưa các vật nói trên về nhà chơi.
Một thanh niên trong làng phát hiện đã lừa đám trẻ em này lấy mất quả cau màu đen (nghi chế tác bằng đồng đen). Hai lư hương và hai chiếc chìa khóa, Sở VH-TT đã kịp thời thu giữ để giám định. Theo dự đoán của một số cán bộ Sở VH-TT Quảng Bình, rất có thể những đồ cổ nói trên chính là một phần trong số tài sản của kho báu vua Hàm Nghi, bởi theo sử liệu, xã Văn Hóa thuộc vùng căn cứ cũ của nghĩa quân Cần Vương.
Tác giả dưới 1 đoạn hầm vàng NHC đã đào |
Trên đường bôn tẩu, Vua Hàm Nghi cũng có ghé lại đây một thời gian ngắn...
Đầu năm 2009, UBND huyện Tuyên Hoá, Sở VHTT và DL Quảng Bình cũng đã tiếp nhận 3 đồng tiền vàng của bà Nguyễn Thị Liên, trú tại thôn Tân Sơn, Sơn Hoá, Tuyên Hoá. Con dâu bà Liên đã phát hiện ra 3 đồng tiền cổ này tại khe nước Trọt Su trong xã. Đem vào tiệm vàng Kim Hoàn ở TP. Đồng Hới thử, kết quả là những đồng tiền này đều đúc bằng vàng 999,9%, mỗi đồng tiền nặng 5 chỉ vàng. Có hai đồng đường kính 2,8cm, đồng còn lại đường kính 2,4 cm.
Hai đồng tiền này đều giống nhau, một mặt có hoạ tiết mặt trời, mặt kia có 4 chữ “Hàm Nghi thông bảo”. Rất có thể, đây là những đồng tiền được đúc dập sau khi vua Hàm Nghi đã trên đường bôn tẩu. UBND tỉnh Quảng Bình đã trao 3,5 triệu đồng tiền thưởng cho gia đình bà Liên vì đã có công phát hiện và giao nộp những cổ vật có giá trị văn hoá lịch sử.
Một nguồn thông tin khác về kho báu vua Hàm Nghi được mô tả bởi ông Lê Ổn, Đại tá Biên phòng về hưu, hiện sống tại TP. Đồng Hới. Năm 1955, ông Ổn là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 229, Công an vũ trang, đóng quân tại Minh Hoá, Quảng Bình.
Tình cờ, những người lính trong đơn vị ông đã phát hiện trên đỉnh núi Ka Ai có một vùng đất trống bằng phẳng, có 20 cây bưởi cổ thụ được trồng thành hình vòng tròn. Bí mật của câu chuyện được một già bản – lúc đó đã trên dưới 90 tuổi- ở xã Thanh Lạng, cách đó không xa giải mã.
Khi già bản này còn là một thanh niên chưa đầy 20 tuổi, có một đợt ông cùng khoảng 30 trai tráng khác ở Thanh Lạng được huy động lên đỉnh Ka Ai... đào giếng. Nửa tháng sau, rất nhiều châu báu đã được đem lên giếng trên đỉnh núi chôn lấp. Công việc hoàn tất, ngay trong đêm, số thanh niên trai tráng này đều bị chém chết ngay tại chỗ.
Bị thương, nhưng nhờ có xác 2 người khác đè lên nên già bản này may mắn được binh lính tưởng chết bỏ qua, không truy sát đến cùng. Đến gần sáng, ông mới tỉnh dậy và cố lết về được đến nhà. Quá khiếp hãi, hơn nửa thế kỷ sau ông vẫn không dám hé răng với bất kỳ ai về vụ việc. Chỉ khi ông Ổn và một số cán bộ tiểu đoàn 229 gợi chuyện, ông mới dám kể, vì tin tưởng Công an vũ trang là những người tốt.
Thuyết phục nhất, áp tết Nguyên đán 2007, lần đầu tiên sau 122 năm, sự thật về một nơi lưu giữ một phần kho báu vua Hàm Nghi đã được tiết lộ, được VTV1 quay phim và phát hình.
Tại xã Phú Gia, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh, một loạt những di vật của vua Hàm Nghi, đáng kể có một cặp kiếm, 6 hoàng bào, một cặp voi vàng, cau, trầu vàng... vẫn được gìn giữ nguyên vẹn sau bao bể dâu lịch sử. Miếu thờ cất giữ những báu vật này nằm cách căn cứ Sơn Phòng xưa chỉ chưa đầy 2km.
Rõ ràng, kho báu vua Hàm Nghi không chỉ tồn tại như một huyền thoại. Ít ra, những dấu tích, cứ liệu còn sót lại cũng chứng minh hùng hồn: sự tồn tại của không chỉ một mà có thể là nhiều kho báu vua Hàm Nghi là điều có thật. Nó đủ hấp dẫn để đốt lên khát vọng tìm kiếm ở không ít người. Trong số đó, nhân vật Nguyễn Hồng Công là kẻ mang khát khao cháy bỏng nhất, lỳ lợm nhất.
Nguyễn Hồng Công sinh năm 1952, là con trai thứ hai trong một gia đình nông dân có 5 trai, 1 gái ở xã Hải Thượng, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Công nguyên là sĩ quan, chính trị viên của một đồn biên phòng thuộc tỉnh Long An. Năm 1979, Công lập gia đình với cô giáo trẻ Phạm Thị Hà và đưa vợ con vào miền Nam lập nghiệp. Gia đình ông có một căn nhà nhỏ tại quận 11, TP.HCM.
Mùa hè năm 1982, Nguyễn Văn Luật, anh trai của Công, thủy thủ tàu viễn dương, sau một chuyến đi công tác nước ngoài có cầm về một tấm bản đồ nghi là bản đồ vị trí kho báu vua Hàm Nghi.
Chi tiết về tấm bản đồ này, Nguyễn Hồng Công “xin phép không tiết lộ”, nhưng theo ông thì đường đi nước bước và vị trí của nó đã được hướng dẫn rõ trong một cuốn gia phả, bằng cách nào đó, ông cũng đã nắm trong tay. Ngoài ra, ông còn sở hữu một... bài thơ. “Hóa Sơn tứ hải cuộc mưu sinh”, Công cho rằng, chính câu thơ mở đầu ấy đã thôi thúc ông vào cuộc, không cưỡng nổi.
Tận dụng những ngày nghỉ phép năm đó, Công đã có mặt tại rừng núi Hóa Sơn, Minh Hóa, Quảng Bình để “thu mua trầm hương” – như ông nói – nhưng thật ra là để thăm dò. Trong khi sục sạo trong vùng núi Mã Cú, tình cờ, Nguyễn Hồng Công tìm được một cục đá hình dạng giống như chiếc đầu lâu, một mặt có khắc chữ Vương, dấu vết y hệt như trong tấm bản đồ mà ông đang sở hữu.
Tò mò là chính, Nguyễn Hồng Công bỏ mấy ngày trời rà soát và phát hiện ra khá nhiều điều ngẫu nhiên có vẻ trùng hợp và thú vị. Ngọn núi nơi ông tìm ra cục đá có tên là Mã Cú hoặc Yên Ngựa, dưới chân núi có một gò đất rộng, khá bằng phẳng gọi là “Động Quân Áp”, tương truyền là nơi cắm trại của đoàn hộ giá nhà vua. Tại đó có một hòn đá rất to bị mòn vẹt một bên, dân địa phương bảo là “do hàng trăm quân lính mài gươm nên mới vẹt đi”.
Từ hòn đá này, Nguyễn Hồng Công dễ dàng tìm thấy những cây lim xẹt, cây đa, cây bồ kết... cổ thụ mọc bên dòng suối chảy dưới chân núi mà theo ông thì tấm bản đồ và cuốn gia phả đã ghi rất rõ.
Chưa hết, câu chuyện về việc tình cờ tìm thấy kho báu vua Hàm Nghi năm 1956 tại Hóa Sơn vẫn còn được các bô lão nhắc lại, một số cán bộ, nhà nghiên cứu mà Nguyễn Hồng Công tìm đến hỏi cũng không phủ nhận. Vậy là không “oong, đơ” gì sất, Nguyễn Hồng Công đã lập tức xin xuất ngũ và bắt tay ngay vào cuộc săn lùng kéo dài hết toàn bộ thời trai trẻ.
Ban đầu, để tránh bị người dân địa phương phát hiện, Nguyễn Hồng Công chỉ đào bới một mình. Ngày đào, đêm nghỉ, 5 năm ròng rã. Thay vì tìm được vàng ròng bạc nén, Công khẳng định rằng ông đã tìm ra được... quy luật xây dựng của kho báu. Theo ông thì toàn bộ kho báu được bố trí trên một mặt nghiêng hình chữ nhật sắp dài theo triền núi, dài 100 m, rộng 50 m. Dấu hiệu khởi đầu kho báu là dấu son ở gốc cây lim xẹt, từ đó đi về phía con suối sẽ bắt gặp hòn đá hình đầu lâu.
Ba giao điểm của chữ Vương (gồm 3 nét ngang, một nét sổ) chính là 3 cửa của kho báu. Giao điểm chính giữa chính là “cống thoát nước”, nét sổ chính là con suối, người xưa dùng suối nước để ngụy trang cho hầm báu vật. Muốn mở hầm kho báu, theo ông việc dứt khoát phải làm là tháo hết... các mạch nước tự nhiên chảy ngầm trong núi!...
Đến đó, chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên đã dứt khoát trục xuất kẻ đào núi không giấy phép Nguyễn Hồng Công ra khỏi Hóa Sơn. Không cam tâm bỏ dở “sự nghiệp”, Nguyễn Hồng Công đã gom hết tài liệu, tư liệu, làm tờ trình gửi lên Bộ VH-TT rồi thuyết phục tất cả các cơ quan hữu trách của tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) và tỉnh Quảng Bình sau này, từ Sở VH-TT, Công an, Bảo tàng đến chính quyền để xin cho được giấy phép săn lùng kho báu.
Có vẻ như những tài liệu mà ông đưa ra có một sức thuyết phục cao cho nên năm 1987, Công đã nắm trong tay tấm giấy phép do UBND tỉnh Bình Trị Thiên cấp. Với tấm giấy phép này, Nguyễn Hồng Công đã thuyết phục được vợ bán nhà, huy động được anh em, họ hàng góp vốn “cổ phần” để bắt tay vào cuộc khai quật công khai và quy mô. Hè năm 1987, hàng tấn máy móc, hàng chục con người, đã rầm rập theo Nguyễn Hồng Công về Hóa Sơn xẻ núi
Kết quả là công cốc!
Thanh Trúc - Tâm Phùng