[links()]
Suốt 25 năm tìm kiếm của [[Nguyễn Hồng Công]], hàng trăm người từ khắp mọi miền nghe tiếng đã cất công lên tận nơi thăm và dò xét cuộc [[khai quật]] của ông. Không ít kẻ rắp ranh đánh quả, ngỡ tìm được cơ hội chia chác, lên đến nơi chỉ thấy rừng thiêng nước độc bọc quanh một “chủ nhân ông” tàn tạ, quần áo rách tướp, râu ria tua tủa, đã ngán ngẩm rút lui trong trật tự và không bao giờ có ý định quay lại lần nữa.
Nhiều nhà khoa học tìm lên, nghe Công trình bày một hồi cũng chỉ còn biết lắc đầu. Ngoài những câu thơ nghe có vẻ mơ hồ như “Hóa Sơn lưu bước quân vương tới/ Mã Cú lưu gìn báu vật xưa”, họ chẳng tìm thấy vết tích gì có thể gọi là cứ liệu khoa học.
Càng ngày, Nguyễn Hồng Công càng lún sâu hơn vào đức tin của chính mình. Ông cho rằng, con suối đổ từ lưng chừng núi Mã Cú xuống ban đầu chia làm hai nhánh. Chôn [[kho báu]] xong, người ta nắn dòng để hai con suối nhập lại làm một.
Ngụy trang bằng nước là kín đáo nhất, không thể phá được! Dẫn khách sục sạo vào những hố đá mà mình đã ròng rã đào tung lên suốt 25 năm, Công trần thuật như phim: “Hầm vàng được xây dựng theo kiểu cuốn chiếu, có 12 hố. Đào xong hố này, bỏ báu vật xuống, lấp lại xong mới đào hố khác nên không để lại vết tích. Hố này chính là “nắp cống nước” của hố kia. Do đó, kẻ săn lùng kho báu mà “thiếu kiến thức” thì chỉ công toi, đào đến đâu nước ngập đến đó, chẳng bao giờ nhìn thấy được kho báu. Họ (người chôn kho báu - NV) khôn lắm, sắp đá theo “kết cấu nghiêng" để chúng tự... ép vào nhau. Vì vậy, để càng lâu, công trình càng... chắc, đừng hòng sạt lở !”.
Nghe Nguyễn Hồng Công lập luận, những người có hiểu biết về nghề xây dựng chắc sẽ điên tiết lắm. Nhưng bất kỳ ai đến thăm, Công cũng giải thích như vậy, chẳng hề ngần ngại.
|
Đất đá từ hầm vàng đào ra tràn phủ cả sườn đồi |
Sự quả quyết của Nguyễn Hồng Công cũng đã khiến không ít nhà khoa học và lãnh đạo chính quyền phải bán tín bán nghi. Trước năm 1998, UBND tỉnh Quảng Bình đã thành lập hẳn một đoàn kiểm tra khảo sát với nhiều cán bộ địa chất, khảo cổ giàu
kinh nghiệm kiểm tra toàn bộ khu vực mà Công đang đào xới. Đoàn kiểm tra kết luận: “Không có dấu hiệu của kho báu tại nơi đang đào”.
Tuy vậy, vẫn không ai dám khẳng định là kho báu này hoàn toàn không có thật. Ngay tại những hố mà Công đã khai quật, thỉnh thoảng cũng lộ ra những dấu tích có vẻ như là mạch hồ, vữa, do bàn tay con người dựng lên hơn là giống mạch đá tự nhiên.
Chưa hết, lẫn trong đất, đá mà Công hất ra ngoài các đường hầm, người ta dễ dàng nhìn thấy những đống mốc xanh – dấu hiệu của ôxít đồng. Được thể, Công lại đưa ngay ra một lời giải thích: “Mỏ đồng nhỏ nhất cũng rộng hàng km2.
Ở đây, ôxít đồng chỉ tồn tại trong một khoảng đất 5.000m2, chệch ra khỏi chu vi này 2m có bói cũng chẳng thấy dấu vết mốc xanh nào cả. Không phải kho báu được chôn ở dưới thì là cái gì? Nhà anh đem đồng ra đây đổ à?”
Những dấu vết mà ông trưng ra quá mờ nhạt để có thể thuyết phục người khác. Nó chỉ biến ông thành một tay ngoan cố không chịu được.Trong khi đó,
sức khỏe và tính mạng của kẻ săn lùng là ông thì cứ treo lơ lửng giữa sự sống và cái chết.
Không ít lần, Công đã nhiễm khí độc ngất xỉu ngay trong địa đạo,
may được dân địa phương phát hiện đưa ra cấp cứu kịp thời. Nhiều lần khác, dưới những đáy hố sâu 15 – 17m, nhát cuốc chim của ông phá vỡ cả một “mỏ” nước ngầm.
Chỉ trong phút chốc nước lạnh buốt trào lên nhấn Công chìm nghỉm. Thoát chết, ông lại tuyên bố: “Người khác là chết chắc! Nhưng tôi thì không thể chết, chìm dưới nước một hồi là tôi lại... bò lên!”
Lúi húi một mình đào xới giữa rừng xanh núi thẳm, Nguyễn Hồng Công có thể gặp tai nạn bất cứ lúc nào. Không phải lúc nào, con người lì lợm ấy cũng
may mắn được phát hiện kịp thời để cấp cứu. Vì vậy, chính quyền địa phương đã nhiều lần phải huy động công an, bộ đội biên phòng vào Hóa Sơn, kè Công ra khỏi núi, trục xuất ông. Đuổi thì Công đi. Nhưng, chỉ ghé về thăm nhà 10 ngày, nửa tháng, thấy hơi êm êm là ông lại mò lên, lại lui cui một mình đào xới. Vợ con, anh em khuyên can thế nào Công cũng bỏ ngoài tai.
Sợ ông chết, vợ con đã kiên quyết “cấm vận”, không gửi tiền bạc lương thực vào nữa để Công dứt khoát phải trở ra. Cấm thì cấm, Công cất chòi, trồng khoai lang, đu đủ... và ở lại luôn lưng chừng núi Mã Cú, quên luôn cả chuyện về thăm nhà như trước.
|
Dưới 1 ngách hầm. |
Đầu tháng 5-2009, chúng tôi lại vào Hóa Sơn thăm Công lần thứ tư. Vàng bạc vẫn chẳng thấy đâu, chỉ thấy hình hài của “gã điên” này tàn tạ đi trông thấy. Nhưng nụ cười của ông vẫn hết sức tự tin. Gặp lại chúng tôi, Công vừa cười vừa khoe phát hiện mới:” Tôi hiểu hết rồi, không phải kho báu vua Hàm Nghi đâu, phải gọi là kho báu... vua Tự Đức mới đúng(!?)”.
Lời đúc kết của Công, các sử gia nghe xong chắc phải trợn mắt. Nhưng Nguyễn Hồng Công thì chưa chịu dừng lại. Niềm tin về kho báu đã biến Nguyễn Hồng Công trước thành nhà xây dựng, nhà khảo cổ, nhà sử học, giờ sắp hóa thành chuyên gia ngôn ngữ.
Theo ông, cây cỏ quanh “kho báu” được trồng như một thứ dấu hiệu ẩn dụ. Công gọi đó là phép... “ẩn từ”, “nuốt từ”. Cây đa là “đường ra”; cây sú, da, là “suối, ra” tức đường thoát nước mà ông đã phát hiện. Cây bồ kết là... “chấm hết”. Cây lim xẹt là “cứng, xẹt lửa”, tức toàn đá, đào chỉ công toi. Cây cối là “cuối”, nghĩa là hết đường đào...
Dù không muốn làm người đối thoại bị tổn thương, nhưng hình như nét mặt của tôi khi ngồi đối diện ông vẫn không thể dấu được vẻ nghi ngại. Công nhận ra ngay. Ông bảo rằng ông đã nhiều lần tự véo vào tay mình, vẫn thấy đau nên chắc chắn là ông không điên. Không điên mà vẫn làm thì chắc chắn là đang làm đúng. Không điên nên ông cười vào mũi mấy “ông khoa học” cứ đòi ông phải trưng ra đồ án để chắc chắn kho báu là có thật, bởi “xây dựng thì mới có đồ án, chứ khảo cổ thì chỉ đi tìm, đồ án đâu ra mà đòi xem?”.
Chuyện nào của Công, tôi nghe cũng nổi da gà. Khoét hầm vào sâu trong núi, thiếu khí lành lại nhiều khí độc, sinh mạng của ông bị đe dọa thường trực, tai nạn có thể ập đến bất cứ lúc nào. Tôi nhắc điều đó, Công tự tin khoát tay: “Người thường vô đó là chết ngay. Tôi thì không, vì tôi đã học được cách... thở ít thôi!
Vui chuyện, Công chui vào túp lều rách nát, xiêu vẹo lôi ra cho chúng tôi xem một số “chiến lợi phẩm” thu được. Chỉ “quả bóng” tròn vo, nặng trịch, có lẽ bằng một thứ kim loại nào đó, vì nó nặng hơn nhiều so với đá Công bảo: “Tôi quai búa tạ 3 ngày liền nó vẫn không chịu vỡ.”
Tôi nghe và tái mặt. Khối kim loại kia trông không khác gì một quả đạn súng thần công!
Đến lượt hai mảnh đá có nhiều đường vân hắt ánh kim, Nguyễn Hồng Công khẳng định, đó chính là một loại... ký tự cổ ông không đọc được nhưng “hiểu rất rõ”. Không khéo, ông này lại rẽ ngang sang lĩnh vực tiếng... Hy Lạp cổ – thứ chuyên môn mà tôi mù tịt – thì nguy to! Nhưng tôi không thắc mắc.
Nguyễn Hồng Công đã trở nên tự kỷ ám thị quá nặng, góp ý, khuyên lơn hay công kích đều chỉ là vô nghĩa. Dù sao, con người gầy gò ngồi trước mặt tôi cũng là hiện thân của một quyết tâm, một nghị lực phi thường. Đó là điều mà trong đời, không phải ai, không phải khi nào cũng có duyên gặp được.
Thôi thì đành trôi theo ông trong một chút mơ mòng, dù hết sức viển vông. Chỉ mong sao có một phép mầu nào đó để “điều không thể trở thành có thể”, để Công sớm tìm ra cửa hầm huyền hoặc. Bạc vàng, châu báu, chúng tôi không nghĩ tới và Nguyễn Hồng Công có lẽ cũng thế. Chỉ mong điều đó xảy ra để cuộc kiếm tìm xuyên 2 thế kỷ của Nguyễn Hồng Công không trở nên vô nghĩa.
Bản cam kết của ảo tưởng Nguyễn Hồng Công bị trục xuất khỏi Hoá sơn từ năm 2009. Những tưởng ảo mộng tìm vàng sẽ chấm dứt lại đó. Cái tên Nguyễn Hồng Công, nếu có được nhắc đến thì cũng chỉ như một chấm phá về nghị lực, lòng kiên trì, hoặc một biểu tượng gàn dở.
Nhưng không, đầu năm 2011, ông lại quay lại. Bí thư Đảng ủy xã Hóa Sơn Bàn Văn Sơn bảo: “Giàn cán bộ xã thấy tay này mò lên là lại hết hồn. Như con chuột chũi, ông ta sẽ tiếp tục xới nát núi rừng, sông suối, trong khi xã thì cứ ngay ngáy lo, lại phải cắt cử người kiểm tra, theo dõi, thậm chí cả bảo vệ tay gàn này nữa. Trục xuất không được, đuổi không xong.
Phạt thì bằng thừa, bởi trên người gã đàn ông này chẳng có gì đáng giá hơn bộ áo quần nhàu nhĩ, lấy gì mà nộp phạt?” Nguyễn Hồng Công có lẽ cũng không muốn “làm khó” địa phương nên lúc quay lại Hoá Sơn, ông cứ lặng lẽ băng rừng mà vào, chẳng báo cáo báo chồn gì cả. Xã, huyện, biên phòng nghe dân báo, vào tận nơi kiểm tra, ông ta lánh mặt. Tìm gập được thì Nguyễn Hồng Công cũng chỉ cười trừ.
Không gặp cán bộ xã, nhưng sau khi gửi tờ trình đi vào ngày 16-6-2011, Nguyễn Hồng Công đã mấy lần đòi gặp cho bằng được Chủ tịch tỉnh Quảng Bình để “bàn về chuyện bảo vệ và khai thác kho báu”. Nhỏ hơn, ông …. không gặp, vì đây là chuyện hệ trọng quốc gia, không phải bạ ai cũng có thể biết và giải quyết được! Tuy nhiên, đến nay thì cuộc tiếp xúc “tối quan trọng” ấy vẫn chưa diễn ra.
Không muốn bị bất kỳ ai khác quấy rầy, Nguyễn Hồng Công tạm lánh mặt khỏi túp lều mới dựng lại và tắt điện thoại.
Công an xã và biên phòng (vì Hoá Sơn là xã nằm trong khu vực biên giới giáp tỉnh Khăm Muộn – Lào) gửi giấy triệu tập nhưng cũng chẳng thấy ông ta ở đâu để mà đưa.
|
Nguyễn Hồng Công dưới hầnm (tư liệu) |
Nhân vật chính lánh mặt, chỉ còn niềm tin mãnh liệt nhưng mơ hồ ở lại. Hôm lên xã gửi tờ trình, ông yêu cầu xã đề nghị lên cấp trên lập am thờ để cúng bái vong linh nghĩa quân Cần Vương và những người chôn kho báu… trước khi khai quật.
Ông cho rằng, “đụng vào kho báu là đụng vào tâm linh, thiêng lắm. Muốn mở kho báu thì phải lập am cúng bái. Người đứng ra cúng phải là người có trách nhiệm, có thẩm quyền chứ như tôi cũng không được phép. Không cùng thì tôi cũng không dám mở cửa hầm. Người khác muốn vào mở tôi cũng không cho, mà có mở cũng không được!”.
Tuyên bố quyết liệt thế, nhưng chứng cứ thuyết phục đưa ra thì lại chẳng có gì mới, thậm chí bắt đầu lẫn lộn lung tung. Ông Công có khuynh hướng tự phủ nhận những căn cứ ban đầu khi rỉ rả với một vài người quen rằng thật ra kho báu Hoá Sơn không phải là kho báu vua Hàm Nghi mà là kho báu của … vua Tự Đức. Ông chỉ nghiệm ra được “chính xác” điều này sau gần 30 năm tìm kiếm, lao động và suy ngẫm!
Chưa hết, trong đoạn đầu của tờ trình gửi đi, mà ông ghi một cách chắc nịch là: tờ trình cuối cùng, ông đã để lộ ra một lỗ hổng to khi vẫn ghi rằng “sau 14 năm tìm kiếm….”. Thì ra, chẳng có gì mới mẻ, ông “chép lại” nguyên văn đoạn đầu trong (cũng) tờ trình cuối cùng viết từ năm 1987. Vì không để ý nên ông vẫn giữ nguyên con số 14 năm, trong khi ở đoạn dưới, tỉnh táo hơn, ông đã điều chỉnh thời “gần thành gần 30 năm”.
Biết Nguyễn Hồng Công từ lâu, chúng tôi đã thật sự cảm thấy buồn và xót xa cho khao khát, nghị lực và công sức lẫn ảo tưởng bao nhiêu năm của Nguyễn Hồng Công. Bây giờ, dù ông có nói gì đi chăng nữa thì câu cũng chẳng còn mấy người phải bán tín bán nghi.
Dường như, niềm tin về kho báu huyền thoại chỉ là của riêng ông, cũng chính là… tài sản duy nhất mà ông có. Không chút mỉa
mai, nhưng chúng tôi cũng không thể nói gì khác, bởi cùng với niềm tin ấy, ông đã mất 30 năm cô độc, 30 năm đầy những kỳ vọng rồi lại rơi xuống đáy tuyệt vọng. Trong khi đó, niềm tin cứ
mai một dần, ông càng cố bám víu, nó lại càng xa vời và nhoà nhạt.
Cuối cùng thì chính quyền xã Hoá Sơn cũng tìm được “người đào vàng xuyên hai thế kỷ” Nguyễn Hồng Công đề “vời” ông về UBND xã làm việc. Muốn hay không thì những thủ tục, yêu cầu hành chính vẫn cứ phải được đề ra với Nguyễn Hồng Công: ông phải đăng ký tạm trú tại địa phương, rời đi phải đăng ký tạm vắng.
Việc đào bới, muốn tiếp tục, ông phải phải xin phép. Thông tin về kho báu đã “mở cửa” được đánh giá là “tin đồn nhảm, do hoang tưởng mà thành” cho nên để tránh gây thêm rắc rối, phiền toái, Công an xã đã yêu cầu ông tránh tiếp xúc với người lạ và không được tự ý cung cấp thông tin chưa kiểm chứng, tránh kích thích tò mò khiến người hiếu kỳ tìm đến để xem hoặc có thể đào bới gây mất an ninh trật tự trên địa bàn.
Dĩ nhiên, để khẳng định mình vẫn tỉnh táo, Nguyễn Hồng Công không hề từ chối bất kỳ yêu cầu hợp lý nào từ phía chính quyền. Ông hứa sẽ chấp hành đầy đủ.
Ba mươi năm chưa phải là toàn bộ hành trình. Một đoạn mới đã lại bắt đầu. Rừng núi Hoá Sơn lại phải miễn cưỡng nhận thêm một Nguyễn Hồng Công lủi thủi, cô độc rị mọ thêm nhiều năm nữa. Và, có trời mới biết
mai mốt sẽ còn xảy ra những chuyện động trời gì?!
Thanh Trúc - Tâm Phùng