Kỳ nhân mù làm ảo thuật quyên tiền cho trẻ nghèo

( PHUNUTODAY ) - Trò chuyện với ông, ông nói nhiều về cuộc đời, về con người, về quê hương và dân tộc mình, nhưng tôi nghĩ chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để người đọc hiểu vì sao ông được gọi là “kỳ nhân của phố Hội”.

Sinh ra trong một gia đình có đông anh em, cuộc đời ông là những chuỗi ngày lang thang vất vả, nhưng niềm yêu thơ, sống vì mọi người luôn cháy bỏng trong trái tim ông. Đã in rất nhiều tập thơ, đã đi biểu diễn nhiều chương trình ảo thuật để quyên tiền tặng cho trẻ em nghèo, trẻ mồ côi, trẻ bệnh tật mặc dù ông không nhìn thấy gì, nhưng vì niềm tin yêu vào cuộc sống, ông vẫn vượt qua bóng tối để sống và cười vui…


Một mảnh đời phiêu dạt

Trong một căn nhà nhỏ trên đường Trần Cao Vân của phố Hội (Hội An, Quảng Nam), lão nghệ sỹ già Nguyễn Miên Thượng (65 tuổi, tên thật là Nguyễn Minh Sinh, sinh ra và lớn lên tại Hội An, hội viên Hội Người mù Quảng Nam) đang ngồi bên bàn viết, đeo cặp kính đen để che đi đôi mắt đã không còn nhìn thấy gì.

Giờ đã ở cái tuổi thất thập cổ lai hy, nhưng lúc nào ông cũng cười, giọng cười đầy sảng khoái, mãn nguyện và thanh thảnh. Cả cuộc đời ông đã sống và cháy hết mình cho những điều ông mơ ước.

Trò chuyện với ông trong căn nhà nhỏ nằm lọt thỏm giữa phố Hội, bên chén nước trà ngọt ngào một buổi chiều nhập nhoạng tối, tôi mới hiểu vì sao người ta (và cả báo chí) thường nhắc đến ông với cái biệt danh “kỳ nhân phố Hội” một cách thân thương, trìu mến như thế.

Trưởng thành trong gia đình đông con, gia cảnh lại khó khăn, nên khi mới biết đọc biết viết, ông đã nghỉ học để đi làm kiếm tiền phụ mẹ nuôi các em. Mẹ ông là Trần Thị Hương từng tham gia “đội quân tóc dài” cùng bà Phan Thị Nể (phu nhân của đồng chí Võ Chí Công).

“Kỳ nhân” Nguyễn Miên Thượng trong ngôi nhà của ông.
“Kỳ nhân” Nguyễn Miên Thượng trong ngôi nhà của ông.

Cha ông là Nguyễn Soái (liệt sỹ) còn mải rong ruổi chinh chiến nơi chiến trường rừng núi với lý tưởng của người Cộng sản kiên trung rồi bị bắt và xử tử năm 1956, mẹ ông sau đó cũng bị bắt nhốt vào nhà lao Hội An, nhưng vì không khai thác được gì nên ít lâu sau địch phải thả bà về.

Những năm trước giải phóng, ông chỉ là một cậu bé gầy gò nhỏ xíu vẫn thường lặn ngụp bên dòng sông Hoài để đặt lờ, nhủi hến, bắt cá cho mẹ mang ra chợ đổi lấy cái ăn.

Ông bảo: “Tuổi thơ tôi nhọc nhằn như con sông trước nhà vậy. Những mùa lụt tôi vẫn thường còng lưng chèo ghe đi bắt ốc, mùa nắng thì lặn ngụp dưới đáy sông mưu sinh. Mỗi con sóng sông Hoài ào lên cũng như là một nỗi niềm trong lòng tôi vậy!”

Mới mười mấy tuổi đầu, ông có được chiếc xe đạp cọc cạch và chiếc thùng kem lớn hơn người, ngày ngày rong ruổi khắp vùng Hội An, Duy Xuyên, Quế Sơn, Đại Lộc, Điện Bàn để bán kiếm tiền. Ngày ấy là những ngày khó nhọc với ông vì mỗi ngày ông phải đạp xe trên 100 km để mưu sinh.

Và rồi đến những ngày đầu sau giải phóng, cuôc đời ông đã sang một ngã rẽ khác để bắt đầu cho cuộc phiêu dạt đầy hoang liêu này.

Hôm ấy cũng như mọi lần, ông vượt qua quãng đường gần 60 km lên đến Đông Phú (Quế Sơn, Quảng Nam) bán kem như mọi lần, lúc ấy giữa chợ người ta tập trung lại để nghe người bán thuốc Đông y chữa bệnh. Ông cũng lại gần đó và bị hút hồn bởi người bán thuốc.

Nhà thơ mù bên bàn viết.
Nhà thơ mù bên bàn viết.

Ông tự nhủ: “Làm thuốc chữa bệnh cũng hay, lại được đến những nơi mà mình chưa từng được đến!”, và rồi chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, ông quyết định theo thầy lang bán thuốc dạo khắp nơi ấy. Ông bảo: “Sau gần 10 năm theo thầy, tôi đã học được rất nhiều điều, từ chuyện thuốc đến chuyện đời.

Thầy thường bảo tôi rằng người ta khen cũng đừng tự mãn, người ta chê cũng đừng buồn nản, quan trọng là cái tâm mình phải giữ thật tĩnh, thật thanh thản mới có thể theo được lâu dài. Đến bên giờ những điều ấy tôi vẫn nhớ như in trong lòng mình!”

Cứ thế, hai thầy trò ông lang bạt khắp các tỉnh miền Trung. Rồi nhập vào một đoàn võ thuật vừa biểu diễn võ, vừa khám bệnh bốc thuốc mà dân gian hay gọi là “đoàn mãi võ”, đi khắp miền Trung, miền Nam và thi thoảng cũng ra Bắc hành nghề.

Đến khi thầy mất, mình ông lại rong ruổi khắp nơi, và thời gian theo các đoàn mãi võ đi biểu diễn, ông cũng học được một vài “ngón” ảo thuật.

Nhà thơ mù làm ảo thuật quyên tiền cho trẻ nghèo

Những lúc rảnh rỗi, ông chìm vào với thơ. Điều đó tưởng chừng như trái ngược nhau, nhưng ông bảo: “Vừa đi mãi võ, lúc buồn thì làm thơ, viết về những trải nghiệm, những điều đã thấy trong những chuyến đi cũng thấy thú vị lắm. Viết để lòng mình lặng lại sau những cuộc mưu sinh vất vả!”

Chừng ấy thời gian, mà theo như ông nói thì ông khởi viết từ những năm đầu tiên của thập niên 1970 của thế kỷ trước, cho đến nay, gia tài thơ của ông cũng khá đồ sộ, với gần 20 ấn phẩm được xuất bản.

Cùng nhiều giải thưởng như giải xuất sắc thơ Văn nghệ tinh thần năm 1973 tại Sài Gòn, giải nhất thơ QĐND năm 1982, giải khuyến khích thơ tứ tuyệt BCH Hội VHNT Đồng Nai 2007, và nhiều giải thưởng khác. Đã xuất bản 10 tuyển tập thơ – văn và có nhiều tác phẩm in trên các báo, tạp chí, thơ tuyển.

Hơn nửa đời gắn với thơ, Nguyễn Miên Thượng được nhiều bạn bè và độc giả yêu quý không phải bởi cái tài mà chính cái tâm ông dành cho nghệ thuật. Không “đao to búa lớn”, cũng không màu mè “tô son trát phấn”, thơ là chốn đi về để ông gửi gắm nỗi niềm.

Cùng với đó, thế giới truyện của ông viết ra như hồi ức của cả quãng đời phiêu bạt của ông. Ông bảo: “Cuộc sống phiêu bạt nên tôi chỉ dám mơ ước mình được như một khóm lục bình trôi dạt, được trổ hoa tím. Quá khứ và dấu ấn về những vùng đất, những chặng đường đã qua, những mẩu chuyện được góp nhặt đây đó đã trở lại sống động trong tôi qua những trang viết ấy”.

Tôi đến Hội An gặp gỡ và trò chuyện với ông, cái tình cái nghĩa của những người trải qua nhiều vất vả khốn khó làm cho khoảng cách về tuổi tác như lùi xa, ông cười hồn nhiên đọc cho tôi mấy câu thơ: “Bạn sống như chàng hát rong/ Ta cũng nửa đời phiêu bạt/ Gặp nhau mái đầu chớm bạc/ Nụ cười sao rất hồn nhiên…”

Vì luôn sống trong hoàn cảnh khó khăn, ông rất cảm thông với những mảnh đời bất hạnh. Khoảng mười năm trở lại đây, khi không còn bán thuốc nữa, và gia cảnh cũng đã bớt khó khăn, ông thường ở nhà vui vầy với con cháu.

Thế nhưng mỗi lần có chương trình từ thiện nào đó, ông lại theo đi. Ông thường nhận lời làm nghệ sĩ khách mời, biểu diễn trong đêm ca nhạc tạp kỹ, các đêm thơ và thường đi quyên góp tiền từ thiện giúp đỡ các trẻ em nghèo, trẻ em khuyết tật và lang thang cơ nhỡ tại Hội An, Điện Bàn, Duy Xuyên.

Ông tâm sự: "Với tôi, tiền chỉ có tác dụng khi nó được dùng để giúp đỡ cho những người cần tới nó. Mỗi khi đi đâu đó, gặp một hoàn cảnh đáng thương là lòng tôi thấy day dứt lắm, phải cố làm cách gì đó giúp đỡ họ. Mỗi khi giúp đỡ được người khác, tôi luôn cảm thấy hạnh phúc".

Trong khi cũng hơn 10 năm trở lại đây, đôi mắt ông bị mù vì bị đục thủy tinh thể. Ông bảo, mỗi lần lên sân khấu biểu diễn, lại phải có người dẫn ông lên những bậc cầu thang, dẫn ra sân khấu.

Mỗi khi người hướng dẫn nhắc tên ông trong mỗi tiết mục nào đó, mọi người lại ồ lên kinh ngạc, và cảm phục, bởi mấy ai ngờ một người mù lại đi biểu diễn ảo thuật để lừa thị giác của người sáng mắt bao giờ.

Nhưng rồi mọi người vẫn xem, xem một cách say mê, mặc dù đó chỉ là những trò ảo thuật rất đơn giản như biến giấy thành tiền, trò đổi lá bài… khiến nhiều cô bé, cậu bé đứng vây xung quanh ông tròn xoe mắt nhìn.

Mỗi lần biểu diễn như thế, số tiền có được từ sự ủng hộ của mọi người, ông đều dành hết cho trẻ em. Ông bảo: “Lũ trẻ trong nhà tình thương tội lắm. Chúng không có tuổi thơ, không được sự chăm sóc của cha mẹ, tình yêu thương của người thân gia đình. Tôi dẫu đã đi qua gần hết cuộc đời, nhưng cứ thấy mấy đứa trẻ mồ côi như thế tôi cũng đau lòng lắm!”…

Trò chuyện với ông, ông nói nhiều lắm về cuộc đời, về con người, về quê hương và dân tộc mình, nhưng tôi nghĩ chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để người đọc hiểu vì sao ông được gọi là “kỳ nhân của phố Hội”.

Chia tay, ông lần mò bước ra đường tiễn tôi về. Và tôi biết, sau đó ông sẽ lại ngồi bên bàn viết, viết lại những điều về cuộc đời giang hồ nhiều gay cấn ly kỳ, bởi ông đi đây đi đó nhiều nơi, đã từng làm xiếc, ảo thuật, bán thuốc mãi võ... và cả nỗi ám ảnh về căn bệnh kỳ lạ như một lời tiên tri vào lúc cuối đời.

Tôi biết rằng, tuy mắt ông không còn nhìn thấy được nữa, nhưng tấm lòng ông vẫn trong sáng, vẫn hướng về những thân phận khốn khó bên đời…

  • Hữu Cường

[links()]
 

TAGS:
Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn