Thanh Hóa được người ta gọi là đất của vua quê của chúa. Đó là bởi từ khi khởi lập triều đại phong kiến tới khi nhà Nguyễn kết thúc, thì Thanh Hóa là quê hương của nhiều vị vua nhất Việt Nam. Có 44 vị vua đã sinh ra ở đất này gồm Tiền Lê (2 vua), nhà Hồ (2 vua), nhà Hậu Lê (27 vua) và nhà Nguyễn (13 vua). Ngoài ra mảnh đất này là quê hương 2 dòng chúa Trịnh và chúa Nguyễn cũng xuất thân từ Thanh Hóa.
Thanh Hóa được gọi là Cửu Châu sau đó đến đời Tần thì Thanh Hóa thuộc Tượng Quận, đời Triệu là quận Cửu Chân… Đời nhà Lương thì Thanh Hóa được gọi là Ái Châu, đến thời nhà Lý được đổi làm phủ Thanh Hóa, tên gọi Thanh Hóa từ đó mà được biết đến.
Đây là mảnh đất phong thủy tốt bởi "Mặt đông trông ra biển lớn, mặt tây khống chế rừng dài. Bảo Sơn Châu (hoặc Sơn Thù) chăm hiểm ở phía Nam, (tục gọi là Eo Ống), giáp huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, núi Tam Điệp giăng ngang phía Bắc. Ở trong thì sông Mã, sông Lương, sông Ngọc Giáp hợp nhau; ở ngoài thì núi Chiếc Đũa, núi Biện Sơn che chở" (Sách Đại Nam nhất thống chí). Thanh Hóa là địa danh nằm ở vị trí trọng điểm được xem là yết hầu của nước Nam. Xa xưa mảnh đất này được đánh giá vùng đất đắc địa nên con người ở đây mưu trí và địa lợi nhân hòa tạo nên ở vùng đất này nhiều người xưng vương xưng đế.
Các đời vua quê ở Thanh Hóa
Theo thống kê thì nơi đây sản sinh ra 44 đời vua Việt, gồm nhà Tiền Lê (2 vua), nhà Hồ (2 vua), nhà Hậu Lê (27 vua) và nhà Nguyễn (13 vua)
Năm Mậu Thìn (248), Lệ Hải bà vương Triệu Thị Trinh đánh quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa làm quân giặc khiếp đảm tôn phục với câu cửa miệng “Hoành qua đương hổ dị. Đối diện bà Vương nan” (Múa giáo chống hổ dễ. Đối mặt vua bà khó). Bà chưa xưng đế lập triều nhưng đã được người dân xem như vua.
Tháng 12 năm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ quê làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã đánh đuổi quan đô hộ Lý Khắc Chính, Lý Tiến của nhà Đường, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết Độ sứ, nhưng thực ra đã là một “vua không ngai” khi tiếp nối được nền độc lập, tự chủ do dòng họ Khúc dựng nên từ năm Ất Sửu (905).
Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo mời Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi để thống nhất lòng dân chống quân xâm lược Tống, từ đó mở ra nhà Tiền Lê (980 - 1009). Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành vốn quê xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Nhà Tiền Lê trải ba đời gồm Lê Đại Hành (980 - 1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngọa Triều (1005 - 1009).
Hơn 500 năm sau, vào năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly đoạt ngôi nhà Trần đã lập ra nhà Hồ đặt tên nước Việt là Đại Ngu, và kinh đô đặt ở Tây Giai, tức Tây Đô của Thanh Hóa. Tổ tiên ông vốn ở Chiết Giang, Trung Quốc, sau di cư sang sống ở Diễn Châu, Nghệ An rồi chuyển ra hương Đại Lại, Thanh Hóa lập nghiệp. Nhà Hồ truyền qua hai đời vua trong 7 năm (1400 - 1407).
Đến giai đoạn Hậu Lê 1428 – 1789 gồm giai đoạn Lê sơ (1428 - 1527) và Lê Trung hưng (1533 - 1789). Bắt đầu là khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng rồi lên vua xưng là Lê Thái Tổ. Vua Lê Lợi quê ở Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giai đoạn Lê sơ trải qua 10 vị vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng, được xem là thời thịnh trị của chế độ phong kiến Đại Việt với đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460 - 1497). Giai đoạn Lê Trung hưng đánh dấu sự phục hồi của nhà Lê sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi với vị vua đầu tiên Lê Trang Tông (1533 - 1548), và kết thúc với vua thứ 16 Lê Chiêu Thống (1786 - 1789).
Nhà Nguyễn (1802 - 1945) do Nguyễn Ánh tức vua Gia Long hưng khởi. Tổ tiên của các đời vua Nguyễn là chúa Nguyễn Hoàng vốn bản quán ở Gia Miêu ngoại trang thuộc huyện Tống Sơn (xã Hà Long, huyện Hà Trung nay). Nhà Nguyễn truyền được 13 đời vua, bắt đầu từ vua Gia Long (1802 - 1820) cho đến vua Bảo Đại (1926 - 1945).
Mảnh đất của cả 2 đời chúa
Nước Việt ghi nhận có 2 dòng chúa là chúa Trịnh và chúa Nguyễn thì quê hương của họ đều xuất phát từ Thanh Hóa.
Chúa Trịnh thế kỷ XVI - XVIII do Trịnh Kiểm lập nên là người có quê tại Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Đời chúa Trịnh quyền lực còn át cả vua Lê. Sự giàu có của chúa Trịnh chẳng khác gì vua. Dòng dõi chúa Trịnh bắt đầu từ chúa Trịnh Kiểm (1545 - 1570) cho đến thời chúa Trịnh Bồng (1786 - 1787) bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ dẹp thì dứt hẳn.
Đời chúa thứ 2 là chúa Nguyễn được lập lên sau chúa Trịnh. Năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên “Hoành Sơn nhất đại, khả dĩ dung thân” đã vào trấn trị đất Thuận Hóa. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chính là con trai thứ của An Thành hầu Nguyễn Kim người Gia Miêu ngoại trang được nói tới ở trên. Dòng dõi chúa Nguyễn trải qua 9 đời từ Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) cho tới Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777), có công lập nên và khai phá đất Đàng Trong, mở rộng dần về phía Nam đất nước cho tới tận Mũi Đất, Cà Mau.
Có thể nói Thanh Hóa là mảnh đất của nhiều đời vua chúa nên được xem là mảnh đất địa linh nhân kiệt.