Lệ Chi viên - một trong những vụ án oan lịch sử nghiêm trọng nhất
Vụ án Lệ Chi viên diễn ra vào năm Nhâm Tuất 1442, khi vua Lê Thái Tông thực hiện chuyến du lịch tuần thú miền Đông sau khi kiểm tra lực lượng võ trang tại thành Chí Linh, rồi đến Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi. Vào đêm 4 tháng 8, vua bất ngờ qua đời. Triều đình đã quy kết Nguyễn Trãi tội lỗi là đã sai vợ mình, Nguyễn Thị Lộ, đầu độc vua và đưa ra án phạt tru di tam tộc. Chỉ sau 12 ngày, Nguyễn Trãi cùng ba dòng họ ông đã bị xử chém tại pháp trường Thăng Long.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại: "Khi vua tuần du miền Đông, về đến vườn Lệ Chi, vua đã thức suốt đêm cùng Nguyễn Thị Lộ rồi băng... Mọi người đều cho rằng Nguyễn Thị Lộ đã giết vua."
Nhà sử học Lê Quý Đôn trong tác phẩm Đại Việt thông sử viết vào thế kỷ XVIII đã ghi nhận rằng: “Khi vua Thái Tông đi tuần ở phía Đông và mắc bệnh nguy kịch, Thiếu úy Trịnh Khả đã không rời xa vua, luôn luôn có mặt để hầu thuốc”. Ở thế kỷ XIX, các sử quan triều Nguyễn trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng đã ghi lại sự kiện vua bị sốt rét. Dù vậy, nhiều người đã quy trung cho Thị Lộ, cho rằng bà có dính líu tới cái chết của vua và cho rằng Nguyễn Trãi phải chịu tội vì có vợ là Thị Lộ. Điều này được cho là bất công.
Có thể thấy rằng, vua đã ra đi trong tình trạng "nguy kịch" và bên cạnh còn có Thiếu úy Trịnh Khả hầu thuốc suốt đêm, không phải chỉ riêng Nguyễn Thị Lộ.
Vậy tại sao triều đình lại quy tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi? Các nhà sử học đã bắt đầu làm sáng tỏ nguyên nhân. Lê Thước là người đầu tiên đề cập và xem xét lại vụ án Lệ Chi Viên trong bài viết "Thử xét lại vụ án Nguyễn Trãi" đăng tải trên Tạp chí Văn Sử Địa năm 1957. Năm 1980, sau khi UNESCO công nhận Nguyễn Trãi là Danh nhân văn hóa thế giới, nhiều nghiên cứu mới đã được công bố. Đặc biệt, trong hội thảo khoa học về Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ được tổ chức vào năm 2002 tại Hà Nội, các nhà nghiên cứu đã sử dụng những tư liệu mới để xác nhận rằng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ không có mối liên hệ nào với cái chết của vua Lê Thái Tông; thực tế, họ chỉ là những nạn nhân trong sự việc này. Điều này cũng cho thấy những nhược điểm cố hữu của chế độ phong kiến, nơi mà tính chất dòng tộc độc tôn đã dẫn đến sự ích kỷ trong các quyết định.
Những người sống sót sau biến cố
Lịch sử không ghi chép rõ ràng về những ai đã thiệt mạng trong vụ án này ngoài Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, cũng như số lượng cụ thể các nạn nhân.
Theo như thông tin ghi chép trong gia phả của dòng họ Nguyễn tại Chi Ngãi (Chí Linh), Phương Quất (Kinh Môn) và Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội), Nguyễn Trãi đã có năm bà vợ. Bà cả là Trần Thị Thành, bà hai là người họ Phùng (quê Nguyệt Áng, Thanh Trì, Hà Nội), bà ba là Nguyễn Thị Lộ (quê xã Hải Triều, Ngự Thiên, hiện nay là Hưng Hà, Thái Bình), bà tư là Phạm Thị Mẫn (quê Nỗ Vệ, Thụy Phú, Phú Xuyên, Hà Nội), và bà năm là Lê Thị phu nhân (có nguồn gốc từ làng Chi Ngãi, Cộng Hòa, Chí Linh).
Nguyễn Trãi đã sinh ra bảy con trai và một con gái. Những người con trai gồm Nguyễn Phù (hay còn gọi là Nguyễn Hồng Quý hoặc Hồng Quỳ), Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng (con của bà Trần Thị Thành); Nguyễn Thị Trà, Nguyễn Bản, Nguyễn Tích (con của Phùng Thị phu nhân); bà Nguyễn Thị Lộ không có con; và cuối cùng là Nguyễn Anh Vũ (con của bà Phạm Thị Mẫn) cùng với Nguyễn Năng Đoán (con của Lê Thị phu nhân).
Khi vụ án diễn ra, cha mẹ của Nguyễn Trãi, ông Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, đã không còn sống, vì vậy không hề có sự liên quan nào đến sự việc này. Cụ Phi Khanh có hai bà vợ và sinh ra bảy người con. Vợ cả đã sinh năm con trai, trong đó Nguyễn Trãi là con trưởng, còn vợ hai có hai con trai. Ba người em có cùng cha cùng mẹ với Nguyễn Trãi đều được ghi nhận là "vô khảo", điều này gợi ý rằng họ có thể đã bị sát hại.
Trong số ba người em trai, Nguyễn Phi Hùng (cùng mẹ, cùng cha), đã theo cha sang Trung Quốc vào năm 1407, trong khi hai em Nhữ Soạn và Nhữ Trạch đã tránh khỏi số phận bi thảm và trở về Cẩm Nga, Đông Sơn (Thanh Hóa). Nhữ Trạch định cư tại làng Bòng, xã Vĩnh Tân, Vĩnh Lộc, từ đó tạo ra hai nhánh của dòng họ Nguyễn.
Nguyễn Trãi có năm người vợ, trong đó vợ cả là Trần Thị Thành sống đến 62 tuổi, mất vào ngày 16 tháng 8 âm lịch, trùng với thảm án năm 1442, có khả năng bà đã bị hành quyết. Vợ thứ hai họ Phùng không được nhắc tới trong gia phả. Trong số năm bà vợ, chỉ có bà Phạm Thị Mẫn và bà thứ tư họ Lê (người Chi Ngãi) sống sót.
Nguyễn Trãi có bảy người con trai, trong đó hai con của Trần Thị Thành là Nguyễn Khuê và Nguyễn Ứng, cùng hai con của bà Phùng Thị là Nguyễn Bản và Nguyễn Tích đều không có ghi chép về họ, có khả năng cũng đã bị xử án.
Theo ông Nguyễn Văn Cường, Phó Trưởng Ban Quản lý di tích Côn Sơn-Kiếp Bạc, có ba người con trai và một con gái của Nguyễn Trãi sống sót. Con trai Nguyễn Phù (vợ cả) trốn về Phù Đàm (nay là Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh), tiếp tục phát triển nhánh họ Nguyễn Trãi ở đó.
Nguyễn Anh Vũ (con bà Phạm Thị Mẫn, vợ thứ tư của Nguyễn Trãi) được học trò cũ của ông là Lê Đạt đưa sang vùng Bồn Man để tránh truy sát. Sau khi vụ án lắng dịu, bà Mẫn quay về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia và sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để bảo vệ an toàn, Vũ đã đổi họ sang mẹ là Phạm Anh Vũ. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, và Nguyễn Anh Vũ là đại diện duy nhất của gia tộc ra nhận chiếu chỉ. Ông kết hôn hai lần và sinh ra bảy người con trai, họ đã phục hồi dòng họ tại nhiều nơi như Nhị Khê, Phú Xuyên (Hà Nội), Chi Ngãi (Hải Dương) và đã tạo dựng nên nhiều chi họ Nguyễn ở Hải Anh (Hải Hậu, Nam Định), Xuân Dục (Mỹ Hào, Hưng Yên) và Dự Quần (Xuân Lâm, Tĩnh Gia, Thanh Hóa).
Nguyễn Thị Đào là người con gái duy nhất của Nguyễn Trãi sống sót, theo một nghiên cứu bà bị câm. Trong cơn lốc gia biến, bà được một hoạn quan đem về nuôi dưỡng.
Ngoài ra, bà Lê Thị, vợ thứ năm của Nguyễn Trãi, cũng sống sót và đã chạy về Phương Quất (Kinh Môn), nơi sinh ra Nguyễn Năng Đoán, góp phần hình thành nhiều nhánh họ Nguyễn tại Kinh Môn và Triều Bến (Đông Triều, Quảng Ninh).
Vụ án Lệ Chi viên đã cướp đi nhiều mạng sống của gia tộc Nguyễn Trãi, nhưng không phải tất cả đều gặp bi kịch. Sau này, khi sự thật được làm rõ, họ đã khôi phục cơ nghiệp và góp phần tích cực vào sự phát triển của dân tộc.