Hải quân Đại Việt và sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo

13:37, Thứ bảy 11/06/2011

( PHUNUTODAY ) - #160; (Phunutoday) - Là một quốc gia biển, từ xa xưa cha ông ta đã gắn bó mật thiết với biển, khai thác tài nguyên biển và bảo vệ chủ quyền trên biển. Trong quá trình phát triển, lực lượng thủy quân cũng đã được hình thành và không ngừng lớn mạnh, hoàn thiện, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giữ gìn đất nước với các dấu ấn đặc biệt mà mỗi người nên biết, nên nhớ…

 

Thủy quân là một trong những lực lượng quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, đã góp phần lập nên những chiến công oanh liệt trong lịch sử nước nhà. Lực lượng này đã được nhiều vị hoàng đế nước Việt quan tâm và có những điều thú vị về nó mà không phải ai cũng rõ.


Nhằm tăng cường hơn nữa sức chiến đấu của thủy quân, sau khi lên ngôi Hồ Qúy Ly đã tiến hành nhiều cải cách quân sự, trong đó về thủy quân bên cạnh các loại chiến thuyền theo mẫu cũ như lâu thuyền (thuyền lầu), lưỡng phúc thuyền (thuyền hai đáy). mẫu tử thuyền (gồm thuyền mẹ và thuyền con, chuyên dùng đánh hỏa công)… ông còn bí mật cho đóng một loại thuyền lớn là thuyền đinh sắt gọi là Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương. Đến năm Giáp Thân (1404) con ông là Hồ Hán Thương lúc này đã nối ngôi, tiếp tục cho làm nhiều thuyền đinh sắt để phòng quân Minh, ngoài ra còn đóng thêm nhiều loại thuyền nhỏ khác nhau..
Loại thuyền Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương có hai tầng, tầng trên lát ván sàn tiện cho việc đi lại, chiến đấu. Tầng dưới chia làm hai ngăn với nhiều khoang, phía trên để giấu lính, phía dưới dành cho đội lính chèo với hàng dãy mái chèo dọc theo 2 bên thân thuyền. Điều đặc biệt, đây là loại thuyền vừa dùng để vận tải quân lương, vừa là thuyền chiến được trang bị nhiều thần cơ pháo khiến thủy binh của giặc Minh nhiều phen khiếp đảm kinh hồn, bị nhiều tổn thất.
Tiếc thay, vì nhà Hồ không được lòng dân ủng hộ nên cuộc kháng chiến của nhà Hồ nhanh chóng thất bại, nước ta bị giặc Minh đô hộ, lực lượng quân đội nói chung và thủy quân nói riêng dù mạnh nhưng không đủ sức cứu nổi vương triều này.

 

 Lâu thuyền
Lâu thuyền




Ngay trong năm đầu tiên ở ngôi vua, Lê Thái Tổ đã ban hành quy chế cụ thể cho lực lượng thủy quân cũng như vũ khí cho binh lính, sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vào ngày mồng 10 tháng 8 năm Mậu Thân (1428) vua “định các khí vật như cờ xí, nghi trượng cho các quân, chiến khí và thuyền ghe: trung đội cờ vàng, thượng đội cờ đỏ, hạ đội cờ trắng. Mỗi vệ một lá cờ lớn của chủ tướng. Mỗi quân một lá cờ hạng trung, 10 lá cờ đội và 40 lá cờ nhỏ. Thuyền chiến dùng vào hỏa công 10 chiếc, thuyền nhỏ đi tuần thám hai chiếc.

Ống phun lửa loại đại tướng quân một chiếc, loại lớn 10 chiếc, loại trung 10 chiếc, loại nhỏ 80 chiếc. Nỏ mạnh 50 cái, câu liêm 50 cái, giáo dài 50 cái, phi liêm 40 cái, mộc mỗi người một chiếc. Phi tiêu (thủ tiễn) hạng nhất dùng mỗi người bốn chiếc, hạng nhì dùng mỗi người 3 chiếc; dao to mỗi người 1 con.

Mỗi quân dùng một người làm Sao quân (người thư lại biên chép –TG), mỗi đội dùng một người làm Sao đội”.

Sử sách còn cho biết ngoài trang phục chung giống như các lực lượng khác, thủy quân thời Lê sơ đội nón thủy ma và nón sơn đỏ để có sự phân biệt.

Lê Thánh Tông, người đầu tiên ban hành quân lệnh thủy trận

Hoàng đế Lê Thánh Tông có lần nói với quần thần rằng: “Phàm có nhà nước tất có võ bị”, do đó vua rất quan tâm đến việc xây dựng quân đội để trấn áp nội loạn và bảo vệ đất nước.

Từ khi nhà Lê thành lập cho đến thời gian trị vì của Lê Thánh Tông, bên cạnh bộ binh, kị binh, tượng binh… thì thủy binh cũng đã trở thành một binh chủng độc lập với việc chia thành nhiều phiên hiệu rõ ràng như: Thiện Hải thuyền, Đấu thuyền, Lâu thuyền, Tẩu Kha thuyền, Khai lãng thuyền, Hải Cốt thuyền...với hình dáng, cấu trúc, chạm khắc, màu sắc, cờ hiệu khác nhau
 

 Hải cốt thuyền
Hải cốt thuyền



Năm Ất Dậu (1465), lần đầu tiên phép duyệt thủy trận và quân lệnh thủy trận được ban hành cụ thể, sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Ban hành phép duyệt tập trận đồ thủy bộ. Về thủy trận thì có những đồ pháp như: Trung hư, Thường sơn xà, Mãn thiên tinh, Nhạn hàng, Liên châu, Ngư đội, Tam tài hành, Thất môn, Yến nguyệt... Lại ban 31 điều quân lệnh về thủy trận…”.

Chính nhờ sự quan tâm đến xây dựng quân đội, trong đó có thủy binh nên thời Lê Thánh Tông, đội chiến thuyền lớn nhất lịch nước ta đã được hình thành; vào năm Kỷ Sửu (1469), Lê Thánh Tông đã huy động một phần trong số đó đi chinh phạt Chiêm Thành. Theo sử sách, ngoài lực lượng bộ binh thì có tới 25 vạn thủy quân và 5000 chiến thuyền do nhà vua đích thân chỉ huy trong cuộc Nam chinh đó.


Khi thấy triều đình nhà Minh ngày càng suy yếu, phía Bắc liên tục bị người Mãn Thanh tấn công uy hiếp, nhận thấy đây là cơ hội có thể thu lại một số vùng đất bị xâm lấn từ trước nên vào năm Bính Tuất (1646) vua Lê Chân Tông sai Trịnh Lãm làm Thống lĩnh, Ngô Sĩ Vinh làm Đốc đồng đem 300 chiến thuyền vượt biển sang đánh Quảng Đông.

Tình cờ khi chiến thuyền Đại Việt tới, gặp lúc vua Thanh đang bị quân Minh vây khốn, hai tướng liền dẫn quân xung trận giúp giải vây, sau này nhớ ơn cứu mạng, vua Thanh Thế Tổ đã gửi vật phẩm ban thưởng. Riêng Ngô Sĩ Vinh vì có công lớn nhất nên vua Thanh sai Đốc học Hứa Khải Mông mang sang tặng ba bức trướng gấm và phong làm “Lưỡng quốc công thần”, ngoài ra còn có bài thơ tặng riêng vị tướng này trong đó có câu: “…

Cô ảnh thượng linh đao vị đoạn/Ngưng nghiêm do hỷ phát như sơ/Mông hưu cường hặng do kinh lộ/ Mộc ảnh cô can độc khoái dư…” (Giáo thiêng bị chặn thân còn sống/Mái tóc y nguyên vui chiến công/ Quân địch hùng cương đà run sợ/ Công ông sáng tựa áng mây hồng).


Ngay sau khi lên ngôi, Gia Long đã cho giải ngũ những binh lính già yếu, giữ lại người khỏe mạnh và tổ chức lại quân đội, trong đó lực lượng thủy binh gôm 17.600 người với 200 chiến thuyền, mỗi chiếc có 16 đến 22 khẩu đại bác, 500 chiếc thuyền nhỏ, mỗi chiếc có 40 - 44 mái chèo, có súng bắn đá và một khẩu đại bác ở mũi thuyền; 100 thuyền lớn, mỗi chiếc có từ 50 đến 70 mái chèo, nhiều súng bắn đá và đại bác. Chính lực lượng này đã khiến thuyền chiến Tây phương kinh sợ.

Thủy quân nước Việt thời chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) đã đụng độ và đánh bại chiến thuyền của Hà Lan, một trong những quốc gia có lực lượng thủy quân hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ.

 Sự kiện này được ghi chép nhiều trong các tài liệu, sách sử của Việt Nam và cả của các nhà buôn, giáo sĩ phương Tây. Tuy nhiên có một trận thủy chiến khác cũng oanh liệt không kém nhưng ít được sử sách và người đời nhắc đến, trong trận chiến này thủy quân Anh quốc, cũng là một lực lượng hùng mạnh trên thế giới một thời đã phải nếm mùi thất bại.

Theo sách Việt sử toàn thư, do nhiều lần đưa thư xin ngoại giao, thông thương đều bị khước từ nên năm Qúy Hợi (1803) nước Anh Cát Lợi (Anh) cho một hạm đội gồm 7 chiếc tàu từ biển Đông theo đường sông vào Hà Nội gây hấn nhưng bị quân ta vây đánh, đốt cháy nhưng không dám lên tiếng phản đối.

Một tài liệu khác là cuốn Thanh triều sử lược của Tá Đằng Sở Tài thì cung cấp một thông tin rất thú vị: “Bấy giờ người cầm đầu binh lính Anh Cát Lợi đóng ở  Ấn Độ nghe biết bên nước An Nam, họ Nguyễn mới tân tạo, ở chỗ sơ hở có thể thừa cơ được, bèn đem hơn 10 chiếc tàu chiến kéo vào cửa sông Phú Xuân. Người An Nam rút hết thuyền núp ở trong nội cảng. Vài trăm dặm không có bóng người…

Đêm đến, thình lình có tới 110 chiếc thuyền nhỏ tiến ra miền hạ du của nội cảng, theo chiều gió thuận, nhân dòng sông xuôi, đánh hỏa công. Người Anh không có đường chạy! Bảy chiếc tàu vào trước đều bị đốt cháy, những chiếc còn ở ngoài biển cũng sợ sệt trốn nốt. Thẹn không dám về nước, bọn người Anh ấy kéo sang Quảng Đông toan chiếm Áo Môn song không trôi, lại rút đi”.

Vua Minh Mạng mua và đóng tàu thuyền theo mẫu của châu Âu

Minh Mạng là vị hoàng đế tiến hành cuộc cải cách lớn nhất triều Nguyễn, cuộc cải cách của ông được tiến hành trên nhiều lĩnh vực. Ông là người rất quan tâm đến việc học hỏi, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật của phương Tây, trong đó có việc cải tiến kỹ thuật đóng thuyền. Bên cạnh đó, không chỉ chú trọng gia tăng số lượng, mà vua còn cho tăng chủng loại tàu thuyền, theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, năm Mậu Tý (1828) vua định ngạch các hạng thuyền (ấn định số lượng các loại thuyền cần đóng) ở các địa phương.

Tinh thần hướng đến tiến bộ mới của Minh Mạng được sử sách ghi nhận rõ, ví dụ cuốn Quốc sử di biên cho biết vào tháng 4 năm Canh Dần (1830) “vua nghe nói ngoại quốc có xe hỏa, tàu thủy và nhiều vật lạ, sai lũ (Đặng) Khải đi Lã Tống, Tây dương để mua”.

Quy chế thủy quân cũng được Minh Mạng cải tiến, ông định kích thước và kiểu dáng cho từng hạng thuyền, thống nhất trong phạm vi cả nước để các xưởng thuyền theo các quy thức đó mà đóng cho chuẩn. Đặc biệt, Minh Mạng đã cho đóng thuyền bọc đồng theo mẫu của người Pháp, vào năm Nhâm Ngọ (1822), vua cho mua một chiếc thuyền bọc đồng của Pháp đưa về Huế, đặt tên là Điện Dương, để làm mẫu cho các xưởng đóng thuyền tại kinh đô nghiên cứu, triển khai đóng theo mẫu thuyền này.

Sách Khâm định Đại Nam thực lục cho biết tháng 6 năm ấy, vua “sai Thống chế thủy sư Phan Văn Trường coi đóng thuyền hiệu theo kiểu Tây dương”. Chiếc thuyền bọc đồng đầu tiên hoàn thành được đặt tên là Thụy Long; sau đó hàng hoạt thuyền bọc đồng được đóng thêm chủ yếu là thuyền chiến, một số là thuyền dùng trong các chuyến công cán ở nước ngoài.

Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết thuyền bọc đồng được phân thành 4 hạng khác nhau là hạng rất lớn, hạng lớn, hạng vừa, và hạng nhỏ.

Ngoài thuyền bọc đồng, năm Mậu Tuất (1838) Minh Mạng cho mua một chiếc tàu máy hơi nước cũ của Pháp đem về tháo ra nghiên cứu để lấy mẫu đóng thử, đến tháng 4 năm sau chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên của nước ta đóng xong và chạy thử thành công, tháng 10 cùng năm đó chiếc tàu máy hơi nước thứ 2 cũng được hoàn thành.

Từ đó, vua xây dựng quy thức đóng tàu máy hơi vào năm Canh Tý (1840) với “thân rộng 7 thước 5 tấc, dài trên dưới 4 trượng, nhưng thân không quá sâu, khoảng 1 trượng, để dễ dàng di chuyển trên các dòng sông” (Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ).


Quân lính thời Nguyễn được chia làm vệ ở kinh đô, cơ ở các tỉnh; để phân biệt nên năm Canh Dần (1830) Minh Mạng đã cho chế và cấp cờ hiệu cho các cơ ở Bắc thành, mỗi cơ một lá cờ vuông, mặt cờ đính tên hiệu quân sắc vàng tươi, tiền quân sắc đại hồng, hậu sắc lão lam, tả sắc quan lục và hữu quân sắc bạch tuyết. Đường răng cưa quanh cờ và đại cờ cũng quy định màu rõ ràng, đều xoay quanh ngũ sắc ứng với ngũ phương. Chế cấp cờ cho quân đội là để làm danh hiệu lệnh chỉ huy mà nghiêm chỉnh hàng ngũ.

Năm Qúy Tị (1833) vua lại định thêm số lượng và màu cờ hiệu cho các chiến thuyền ở Bắc Thành để khi có việc, phóng thuyền đi thì ở về phía thuyền kéo cờ để làm tín hiệu. Tiếp theo còn quy định việc treo cờ và dùng cờ hiệu ở các vọng lâu cửa biển.

Đồng thời cũng quy định hiệu cờ khi hành quân đường thuỷ: tuỳ theo các hiệu cờ "tam tài" - "thiên địa" - "tứ định" - "ngũ hành" - "tứ tượng" - "giao thái" - "lục hiệp" đưa ra mà viên quản thuyền phải điều khiển cả đoàn thuyền hành quân theo đúng tốc độ và cự ly. Nếu thấy cờ " thống nhất" thì các đại thần phải kịp đến thuyền vua nghe lệnh. Ai làm không đúng hiệu cờ đều bị phạt nặng.

Các đời vua trước, thủy quân thao diễn, luyện tập thường là phép dàn trận, tấn công, tiến lui… Đến thời Minh Mạng, vào năm Canh Tý (1840) cuộc tập trận có mục tiêu giả định lần đầu tiên được tiến hành, theo sử sách nhà Nguyễn ghi lại, vua đã định phép thao diễn thuỷ sư như một cuộc tập bắn trên biển với diễn biến như sau:

Một cái bè nổi giả làm hình thuyền, dài độ 3 trượng, ngang hơn 1 trượng, dựng phên nứa làm giả lá buồm được dựng lên. Đặt bè ở biển hoi xa bờ, xung quanh thả neo để khỏi bị trôi. Những thuyền tham gia diễn tập đậu cách bè chừng 50 trượng, tất cả đều chỉnh tề đợi lệnh. Khi thành Trấn Hải treo cờ đỏ thì cuộc thao diễn bắt đầu, các thuyền đều nhỏ neo kéo thuyền chạy về phía bè.

Khi đến quãng giữa thì thuyền đến trước sẽ mang súng hồng y lên ngắm vào bè nổi, bắn liền 3 phát rồi tiến quá phía trước bè ngoài 500 trượng lại quay trở về. Các thuyền đi tiếp sau cũng làm như thế, khi trở về thanh thuyền đi trước, khi đến chỗ tiêu chuẩn bè nổi ở trung gian lại bắn súng như trước và chèo thuyền về chỗ bày hàng ban đầu.

 Lại thuyền buôm tiến lên bắn súng như trước. Bắn xong 3 đợt thì cờ trên thành Trấn Hải hạ xuống, truyền lệnh thu quân, các thuyền cuốn buồm và hạ neo.


Lên ngôi đầu năm Tân Sửu (1841), Thiệu Trị tiếp tục cho tiến hành đổi mới thủy quân như thời vua cha Minh Mạng, ông đã cho sửa chữa một số tàu, nâng vận tốc lên cao hơn so với trước, cho đóng thêm 2 chiếc tàu máy hơi nước và mua một chiếc tàu máy hơi nước mới dài 9 trượng 5 thước 7 tấc, rộng 1 trượng 5 thước 1 tấc, sâu 6 thước, đặt tên là Điện Phi. Đây là chiếc tàu máy hơi nước lớn nhất mà triều Nguyễn sở hữu.

Điều thú vị là với mục đích kiểm tra khả năng của tàu thuyền bằng việc diễn tập thủy trình với tuyến đi xa, kết hợp với hoạt động thương mại nên vào năm Bính Ngọ (1846) vua Thiệu Trị sai Thị lang bộ Hộ là Tôn Thất Thường và Lang trung Nguyễn Công Nghĩa dùng thuyền lớn đi sang Giang Lưu Ba (Batavia thuộc Indonesia ngày nay); Thự lang trung bộ Công là Vũ Đình Ý và viên ngoại lang Đỗ Tuấn Đại đáp thuyền to sang Tân Gia Ba (Singapore ngày nay) để “diễn tập đường thủy, nhân tiện mua các thứ hàng hóa”.


Trước sự hoành hành của cướp biển Tầu Ô, nhận thấy thủy quân triều đình kém khả năng trong việc truy quét cướp biển nên sau khi nhận được bản tấu của đại thần Bùi Viện gửi ngày mồng 8 tháng 7 năm Bính Tý (1876) đề nghị lập một “đội hải quân đi tuần khắp miền duyên hải nước ta” với nhiệm vụ “vận tải lương tiền của nhà nước, hộ vệ các nhà buôn và trừ diệt những giặc bể còn đương hoành hành ở Đông hải”, vua Tự Đức đã đồng ý cho lập lực lượng Tuần dương quân thuộc Nha tuần hải do chính Bùi Viện phụ trách với chức phong Thương chính tham biện kiêm Tuần hải nha chánh quản đốc.

Lực lượng Tuần dương quân có quân luật riêng gồm 12 điều và được chia làm hai nhóm là Thanh đoàn đội mũ vải mặc áo nẹp xanh và Thủy dũng đội nón dấu mặc áo nẹp đỏ, thuyền của họ gọi là thuyền tuần dương dùng để tuần tiễu, canh phòng mặt biển và chống hải tặc. Tuần dương quân còn được bố trí tại các chi điếm của Nha tuần hải ở nhiều thương cảng, cửa biển trọng yếu.

Từ khi thành lập, Tuần dương quân đã giao chiến nhiều trận với giặc biển Tầu Ô, có lần truy đuổi chúng đến tận đảo Hải Nam, dần dần các tuyến hàng hải trở lại yên ổn, các cửa biển trở nên sầm uất, tàu thuyền ra vào buôn bán ngày một nhiều. Tiếc rằng lực lượng tuần duyên đầu tiên của nước ta tồn tại không được lâu, ngay sau cái chết đột ngột của Bùi Viện vào ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Dần (1878) không ai có đủ khả năng và uy tín kế thừa vị trí của ông nên lực lượng này đã tan rã nhanh chóng.

s

Thuyền chiến, thuyền buồm, thuyền chỉ huy thời Vua Tự Đức (1847- 1883)


 
II. Thủy quân góp phần bảo vệ và khẳng định chủ quyền biển đảo

Khai thác, chiếm hữu, xác lập chủ quyền và quản lý lãnh thổ trên biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được tiến hành từ lâu đời, nó cho thấy tầm nhìn sâu rộng, chiến lược của cha ông ta.

Nhiều vị hoàng đế nước Việt không chỉ coi trọng việc đó vì lợi ích kinh tế mà đặc biệt là bởi tầm quan trọng về an ninh quốc phòng như trong sách Đại Nam nhất thống chí đời Nguyễn đã viết: “Phía Đông có dải đảo cát nằm ngang (Hoàng Sa đảo) liền với biển xanh làm hào che, phía Tây khống chế vùng Sơn Man có lũy đá dài chồng chất giữ cho vững vàng, phía Nam kề bên tỉnh Bình Định, có sườn núi Bến Đá làm mũi chặn ngang, phía Bắc tiếp giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh sa có thể làm giới hạn”.


Không chỉ kiên quyết bảo vệ lãnh thổ, đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm, lấn chiếm trên đất liền; các triều đại phong kiến Việt Nam kể từ khi giành quyền tự chủ lâu dài còn xác định hải giới (biên giới biển) và chú trọng bảo vệ chủ quyền trên biển.

Hải giới của nước ta với phương Bắc đã được xác định rõ ràng nhưng sử liệu lần đầu đề cập đến “hải giới” một cách trực tiếp là vào năm Canh Dần (990) khi sứ Tống sang, vua Lê Đại Hành “sai Nha nội chỉ huy sứ là Đinh Thừa, Chính đem 9 chiếc thuyền dẫn 300 người đến Thái Bình Quân để đón” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Trong cuốn Hành lục tập, sứ giả Tống Cảo cũng thừa nhận điều này: “Cuối thu năm ngoái, bọn Cảo chúng tôi đi đến hải giới Giao Chỉ, Nha nội đô chỉ huy sứ của Hoàn là Đinh Thừa Chính đem 9 chiến thuyền và 300 quân đến Thái Bình Trường để đón. Từ cửa sông đi ra biển lớn, xông pha sóng gió, trải bao nguy hiểm, đi nửa tháng trời đến sông Bạch Đằng...”.

Thái Bình Quân hay Thái Bình Trường là đơn vị hành chính thời Tống, sau đổi là Liêm Châu (nay là tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc).


Kế thừa kinh nghiệm của các triều đại trước, sau khi thành lập các vua triều Lý kế tiếp nhau xây dựng lực lượng thủy quân ngày càng hùng hậu. Các cuộc chinh phạt Chiêm Thành nhằm ổn định biên cương phía Nam không chỉ thực hiện bằng đường bộ mà triều Lý còn thường xuyên sử dụng binh thuyền.

Tuy nhiên sự kiện chấn động nhất trong lịch sử, chứng tỏ sức mạnh vượt trội của thủy quân thời Lý là vào năm Ất Mão (1075), trước nguy cơ quân Tống chuẩn bị lực lượng sang xâm lược nước ta, với chủ trương “tiên phát chế nhân” (ra tay trước để chế ngự người), vua Lý Nhân Tông đã sai 10 vạn quân chia làm hai đường thủy bộ đồng loạt tấn công sang đất Tống.

Về đường thủy, với yếu tố nhanh chóng, bất ngờ, thái úy Lý Thường Kiệt đã đích thân dẫn thủy quân cùng hàng trăm chiến thuyền vây đánh Khâm Châu, Liêm Châu (Quảng Đông)

Cuộc tập kích đường thủy này khiến quân Tống hoàn toàn bị bất ngờ, ngày 30 tháng 12 năm Ất Mão (1075) Khâm Châu bị chiếm. Ba ngày sau Liêm châu cũng mất, nhiều tướng Tống tử trận.

Sử cho hay viên quan coi giữ Khâm Châu là Trần Vĩnh Thái trước đó đã có người báo cho là quân Giao Chỉ sắp vào đánh, nhưng Thái không tin, đến khi chiến thuyền của quân Đại Việt tràn đến thì Trần Vĩnh Thái vẫn còn bày tiệc uống rượu. Quân Lý đột nhập vào thành không mất người nào, bắt Vĩnh Thái và toàn bộ quân lính, thuộc tướng và rất nhiều của cải.

Thắng lợi đường thủy đã góp phần quan trọng cho các đạo quân bộ liên tiếp hạ các châu quân của Tống như Ung Châu, Bạch Châu…, phá hết các thành lũy, kho tàng mà quân Tống sử dụng để làm tập hợp binh lương định đánh Đại Việt.


Trái với nhiều quốc gia lân bang cùng thời kỳ chỉ quan tâm đến lãnh thổ trên đất liền, các triều đại phong kiến Việt Nam đặc biệt chú trọng đến biển, không chỉ nhằm khai thác hải sản và các nguồn lợi khác từ biển mà còn từng bước xác lập chủ quyền trên các hải đảo. Thậm chí có vị vua còn trực tiếp đi tuần thú ra biển để xem xét và người đầu tiên thực hiện việc đó là Lý Anh Tông, hoàng đế thứ 6 của triều Lý.

Sử chép rằng, vào tháng 11 năm Tân Tị (1161) vua sai Thái úy Tô Hiến Thành “đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển miền Tây Nam để giữ yên bờ cõi xa” (Đại Việt sử ký toàn thư). Năm Tân Mão (1171) “vua đi tuần ra cù lao ngoài biển, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết sự đau khổ của nhân dân và đường đi xa gần thế nào”; tháng 2 năm Nhâm Thìn (1172) “vua lại đi tuần ra cù lao ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Qua các lần đi này, vua Lý Anh Tông đã soạn một cuốn sách lấy tên là “Nam Bắc phiên giới đề”. Có thể thấy ông là vị lãnh đạo quốc gia đầu tiên của nước ta ngoài việc quan tâm đến việc giữ gìn biên cương trên bộ còn chú ý đến cả vùng hải đảo nên sách có đánh giá rằng “về mặt giữ dân, giữ nước, việc làm đáng khen” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời xưa được cha ông ta thường coi là một dải đảo dài nên gọi chung bằng các tên khác nhau như Bãi Cát Vàng, Cồn Vàng, Vạn lý Hoàng Sa, Vạn lý Trường Sa, Đại Trường Sa,…

Tư liệu từ triều nhà Hồ trở về trước đã bị mất mát, phá hoại rất nhiều vào thời giặc Minh xâm lược nước ta nhưng việc Lê Thánh Tông cho lập bản đồ toàn quốc gọi chung là “Hồng Đức bản đồ” vào năm Canh Tuất (1490), trong đó có cả Hoàng Sa và Trường Sa, điều này cho thấy trước đó hai quần đảo này đã thuộc chủ quyền Đại Việt.

Trên cơ sở “Hồng Đức bản đồ”, một nho sinh họ Đỗ Bá hiệu Công Đạo đã soạn bộ sách “Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” vào khoảng năm 1630 – 1653 gồm 4 quyển, trong quyển 1 có ghi: “Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, dựng đứng giữa biển” và có một bản đồ vẽ nhóm đảo thuộc Quảng Ngãi, phủ Thăng Hoa với chú thích chữ Nôm là “Bãi Cát Vàng”
 

Bản đồ xứ Quảng Nam đời Lê, theo Thiên Nam lộ đồ, vẽ lại năm 1741 (bản sao chép của Dumoutier) có “Bãi cát vàng” tức là Hoàng Sa
Bản đồ xứ Quảng Nam đời Lê, theo Thiên Nam lộ đồ, vẽ lại năm 1741 (bản sao chép của Dumoutier) có “Bãi cát vàng” tức là Hoàng Sa



Sau khi lên ngôi, Gia Long - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Nguyễn tiếp tục kế thừa chính sách khai thác tài nguyên biển và bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sử sách nhà Nguyễn chỉ chép vào năm Bính Tý (1816) vua Gia Long sai người ra hải đảo biển Đông nhưng theo nhiều tài liệu của người phương Tây, vua Gia Long không chỉ quản lý mà thậm chí còn trực tiếp ra cắm cờ tại Bãi Cát Vàng. Một cố vấn người Pháp của vua là J.B.Chaigneau (tên Việt là Nguyễn Văn Thắng) trong cuốn hồi ký “Ghi chép về xứ Cochinchie” đã viết: “Quần đảo Paracel gồm nhiều đảo nhỏ, ghềnh và mỏm đá không có dân cư. Vào năm 1816, vị Hoàng đế bấy giờ đã tiếp nhận chủ quyền trên quần đảo này”.

Giám mục Jean Louis Taberd thì cho biết rõ hơn, trong sách “Bức tranh Thế giới-Lịch sử và mô tả các dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán của họ” xuất bản tại Paris năm 1833, có đoạn viết: “Quần đảo Paracel mà người Việt gọi là Cát Vàng gồm rất nhiều hoang đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên… Những hoang đảo này đã được chiếm cứ bởi người Việt xưa Đàng Trong. Chúng tôi không rõ họ có thiết lập một cơ sở nào tại đó không; nhưng có điều chúng tôi biết chắc là Hoàng đế Gia Long đã chủ tâm thêm cái đóa hoa kỳ lạ đó vào vương miện của Ngài; vì vậy mà Ngài xét thấy đúng lúc phải thân chinh vượt biển để tiếp thâu quần đảo Hoàng Sa, và chính là vào năm 1816, Ngài đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong”.

Trong bài viết đăng trên một tờ báo tiếng Anh phát hành ở Bengal (Ấn Độ) năm 1849, Giám mục Jean Louis Taberd một lần nữa nhắc lại sự kiện liên quan đến vua Gia Long: “Năm 1816, Ngài đã tới long trọng cắm cờ quốc gia của ông và chính thức giữ chủ quyền các hòn đảo này mà hình như không một ai tranh giành với ông”.


Để biết rõ hơn về các đảo thuộc Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa và Trường Sa), theo sách Đại Nam thực lục chính biên, năm Giáp Ngọ (1834) vua Minh Mạng đã sai Đội trưởng đội Hoàng Sa là Trương Phúc Sĩ dẫn 20 thủy thủ đi đo đạc kích thước, vẽ bản đồ, đo độ nông sâu, địa thế các đảo.

Kể từ đó vua đã nhiều lần cho tiến hành công việc này, những người không hoàn thành nhiệm vụ đều bị xử phạt nghiêm khắc, như trường hợp của Giám thành Trương Viết Soái, năm Bính Thân (1836) khi về không có bản đồ đệ trình bị xử “trảm giam hậu” (chém nhưng tạm giam trước)…

Đặc biệt, bên cạnh việc khai thác, tuần phòng trên biển, vua Minh Mạng còn cho tiến hành xây dựng nơi thờ tự (chùa, miếu), trồng cây, dựng cột, bia chủ quyền tại một số đảo vào các năm 1833, 1835, 1836…

Việc cho quân đồn trú, tiến hành thu thuế và bảo vệ ngư dân cũng đã được thực hiện, một người Anh tên là Gutzlaff trong bài viết đăng trên tập san “Á Châu hội” xuất bản ở Luân Đôn (London) năm 1849 cho biết: “Những đảo ấy đáng lẽ không có giá trị nếu nghề cá ở đó không phồn thịnh và không bù hết mọi nguy nan cho kẻ phiêu lưu…Tuy rằng hàng năm hơn mười phần thuyền bị đắm nhưng đánh cá được rất nhiều, đến nỗi không những bù hết mọi thiệt thòi mà còn để lại món lợi rất to.

Chính phủ An Nam thấy những lợi có thể mang lại nếu một ngạch thuế đặt ra, bèn lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ ở chỗ này để thu thuế mà mọi người ngoài tới đều phải trả, và để bảo trợ những người đánh cá bản quốc”.


Mặc dù chịu sự bảo hộ của Pháp, Nam triều chỉ là chính quyền bù nhìn mất quyền tự chủ trong đó có quyền ngoại giao nhưng về danh nghĩa vẫn là đại diện cho quốc gia nên khi quyền lợi bị xâm phạm trước các yêu sách của chính quyền Quốc dân đảng Trung Hoa và sự đề nghị cung cấp dữ kiện liên quan đến vấn đề biển Đông, ngày 3 tháng 3 năm 1925, Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề theo lệnh vua Khải Định đã thay mặt triều đình Huế đã xác nhận chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa bằng một văn thư, trong đó có đoạn như sau: “Quần đảo Hoàng Sa luôn luôn thuộc về Việt Nam và đó là vấn đề không thể chối cãi được…”

Trong bản báo cáo ngày 22.01.1929, Khâm sứ Pháp ở Trung kỳ là Le Fol nhấn mạnh các quyền được nước An Nam khẳng định và duy trì từ lâu trong diễn biến giữa chính quyền bảo hộ Pháp và Trung Quốc tranh chấp các đảo trên biển Đông, ông đã viết như sau: “Thân Trọng Huề, nguyên Thượng thư Bộ Binh, qua đời năm 1925, trong thư ngày 3 tháng 3 năm đó, đã khẳng định rằng “Các hòn đảo đó bao giờ cũng thuộc nước An Nam. Không có gì phải tranh cãi về vấn đề này”.

   Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề
Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề




Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thường gọi chung bằng cái tên phổ biến là Cát Vàng (Hoàng Sa) từ khi thuộc lãnh thổ nước ta là một đơn vị của đất Thuận Quảng, qua thời gian được đổi tên là Quảng Nghĩa, Quảng Ngãi, Nam Ngãi. Đến đời vua Bảo Đại, việc phân tách thành hai quần đảo mới được xác lập rõ ràng hơn.

Tháng 12.1933 các đảo Trường Sa sáp nhập vào địa phận tỉnh Bà Rịa và đến ngày 29 tháng 2 năm Mậu Dần (1938) vua Bảo Đại ra Chỉ dụ số 10 chuyển đổi hành chính đảo Hoàng Sa: “Các cù lao Hoàng Sa (Archipel des Iles Paracels) thuộc về chủ quyền nước Nam đã lâu đời và dưới các tiền triều, các cù lao ấy thuộc về địa hạt tỉnh Nam Ngãi; đến đời đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế vẫn để y như cũ là vì nguyên trước sự giao thông với các cù lao ấy đều do các cửa bể tỉnh Nam Ngãi…

Nhờ sự tiến bộ trong việc hàng hải nên việc giao thông ngày nay có thay đổi, vả lại viên đại diện chính phủ Nam triều uỷ phái ra kinh lý các cù lao ấy cùng quan đại diện chính phủ bảo hộ có tâu rằng nên tháp các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên thời được thuận tiện hơn…. Chuẩn tháp nhập các cù lao Hoàng Sa (Archipel des Iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên; về phương diện hành chính các cù lao ấy thuộc dưới quyền quan Tỉnh hiến tỉnh ấy”.

Trên cơ sở đó, ngày 5.6.1938, toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký nghị định thành lập đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên và cho dựng bia chủ quyền tại đảo Hoàng Sa.

PV

 

Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn copy link
Tác giả:
Từ khóa:
Tin nên đọc