Hỏi chuyện giám đốc bị băng nhóm bắt cóc “giam lỏng” suốt 5 ngày

08:04, Thứ bảy 23/07/2011

( PHUNUTODAY ) - Sau đó Ngô Quốc Tiến đã từng nhiều lận gọi điện thoại cho tôi để đòi nợ. những lần gọi điện như thế, Tiến có nói rằng số tiền 500 triệu đồng ấy là do Tiến đưa cho anh trai, tức ông Tr để làm ăn, chứ không phải là tiền#160; của ông Tr.

(Phunutoday) - Ngay sau khi nạn nhân của vụ bắt cóc, tống tiền gây chấn động ở TP.HCM trong thời gian vừa qua vừa được giải cứu, P.V đã có cuộc gặp gỡ và hỏi chuyện ông N.H.K (SN 1981, là giám đốc của DNTN K.A chuyên thiết kế xây dựng trụ sở tại đường Nguyễn Cảnh Chân, phường Nguyễn Cảnh Chân, quận 1, TP.HCM) – nạn nhân của vụ bắt cóc, tống tiền trên, và bà T.A (hiện là giảng viên của một trường đại học lớn ở TP.HCM và là vợ của ông K) về các tình tiết của vụ án cũng như vụ giải cứu ngoạn mục này.



P.V: Ngay sau khi được lực lượng cảnh sát hình sự, công an TP.HCM giải cứu, ông có khai báo là nguyên nhân của vụ bắt cóc tống tiền là xuất phát từ mâu thuẫn trong mối quan hệ làm ăn, ông có thể nói rõ về tình tiết này không?

Ông N.H.K: Trước đây, công ty tôi làm giám đốc có đầu tư xây dựng một dự án nhà ở quy mô tại TP.Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa mà dự kiến vốn điều lệ lên đến 120 tỷ đồng. Sau đó một thời gian có nhiều người đầu tư, góp vốn vào dự án của tôi, trong đó có Ngô Quốc Tr - là anh ruột của đối tượng Nguyên Quốc Tiến (SN 1979, ngụ quận 8, là giám đốc DNTN K.H trên đường Nguyễn  Đình Chiểu, phường Đa Kao, quận 1, người vừa bị bắt giữ). Người này cũng góp 500 triệu đồng vào dự án vào thời điểm tháng 10/2010. Tuy nhiên sau đó vì dự án chậm tiến độ nên ông Tr có nói rõ ý định là rút vốn ra.

Sau đó Ngô Quốc Tiến đã từng nhiều lận gọi điện thoại cho tôi để đòi nợ. những lần gọi điện như thế, Tiến có nói rằng số tiền 500 triệu đồng ấy là do Tiến đưa cho anh trai, tức ông Tr để làm ăn, chứ không phải là tiền  của ông Tr.

P.V: Trước khi gây ra vụ bắt cóc, tống tiền mà dư luận chú ý, thì nhóm người này đã từng gây áp lực cho ông để đòi tiền chưa?

Ông N.H.K: Sau nhiều cuộc điện thoại đòi tiền thì vào khoảng tháng 1/2011, họ đã bắt tôi viết và ký vào một giấy biên nhận nợ thể hiện số tiền tôi nợ là 500 triệu đồng. Đến tháng 4/2011 họ lại đòi tiền nhưng tôi nói không có tiền mặt và có gợi ý bán cho họ căn nhà của gia đình tôi đang ở tại quận 7 (giá trị lúc đó là 2,3 tỷ đồng) thì họ đồng ý. Nhưng đến khi làm thủ tục giao nhà thì họ lại đổi ý, không chịu.

Cũng trong tháng 4/2011 thì Ngô Quốc Tiến cùng hơn 10 người khác kéo đến nhà tôi tại chung cư Minh Thành, phường Tân Quy, quận 7. Nhà tôi ở trên tầng 7 nhưng lúc này họ “giam lỏng” tôi suốt nửa ngày liền tại khu vực không gian công cộng ở tầng trệt của khu chung cư. Lúc này họ buộc tôi ký vào một giấy biên nhận nợ thứ hai, thể hiện số tiền tôi nợ nần họ là 583 triệu đồng. Tôi có đòi lại giấy biên nhận nở lần thứ nhất nhưng họ không giao. Cả hai giấy biên nhận nợ đều có ghi rõ tôi nợ Tiến chứ không có liên quan đến khoản tiền 500 triệu đồng giữa tôi và ông Tr hùn hạp làm ăn. Sau khu tôi ký vào biên nhận nợ thì họ thông báo với tôi rằng, tôi nợ họ gần 1,1 tỷ động, tức là cộng gộp cả hai giấy nợ.

P.V: Ông có thể nhớ và kể lại thời điểm ông bị bắt cóc hay không?

Ông N.H.K: Lúc đó khoảng 9 giờ sáng 8/7, tôi đến công ty làm việc như bình thường thì bất ngờ có nhóm thanh niên, mà chính xác là 9 người do Ngô Quốc Tiến dẫn đầu ập vào công ty. Họ đến để đòi nợ và hai bên làm việc từ sáng đến 19 giờ đêm thì họ nói, tôi phải đi theo họ về Bình Dương để giải quyết nợ nần. Nói rồi họ đưa tôi ra chở bằng xe gắn máy đi. Họ đi lòng vòng nhiều tuyến đường ở trung tâm TP.HCM rồi ngay trong đêm đó chở tôi thẳng về 1 quán cà phê cóc ở quận 2.


Ông N.H.K: Việc họ đưa tôi đi có nhiều nhân viên của công ty đều biết. Ngoài ra ngay trong đêm 8/7 họ có đưa tôi đến một quán cà phê ở quận 2. Tại đây tôi có xin đi vệ sinh, có người canh gác bên ngoài nhưng vừa vào nhà vệ sinh của quán cà phê thì lập tức tôi mở nước và lấy ĐTDĐ ra, nhắn tin tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại… của người bắt cóc tôi cho anh C, là em kết nghĩa cũng là người làm chung công ty, yêu cầu phải đi trình báo cơ quan công an gấp. Liên tiếp trong những ngày sau đó tội cũng không biết, gia đình tôi có báo công an không?

P.V: Trong 5 ngày đó họ giam cầm ông như thế nào? Họ đã đưa ông đi những nơi nào? Việc sinh hoạt của ông ra sao?

Ông N.H.K: Trong suốt 5 ngày, ban ngày họ luân phiên sử dụng xe gắn máy để đưa tôi đi khắp nơi, nhưng không có nơi nào cố định. Họ chỉ bắt tôi ngồi sau để đi lòng vòng khắp các tuyến đường ở TP.HCM, phía sau có vài xe gắn máy đeo bám theo sau để giám sát. Còn ban đêm họ đưa tôi đến một quán cà phê cóc ở ngay chân cầu Sài Gòn thuộc quận 2 và góc cà phê cóc ngay góc đường số 28 – đường số 31, phường An Phú, quận 2 của bà Mai (tức Đỗ Thị Mai  - một đối tượng trong vụ án – P.V). Ở đây lúc nào cũng có 3 – 6 người thay phiên nhau canh gác tôi suốt đêm, tôi phải ngồi ghế ở quán ở các quán đó để ngủ ngồi.

Suốt 5 ngày đó tôi chỉ bận mỗi 1 bộ đồ trên người, không được tắm rửa. Còn vấn đề ăn uống thì họ chỉ cho ăn bánh mỳ, mì gói... có khi thì được ăn cơm hộp.


Ông N.H.K: Họ không hề đánh đập tôi, nhưng có lớn tiếng chửi bới. Có lần tôi nghe họ bàn bạc với nhau, nếu không lấy được tiền của gia đình tôi thì họ sẽ sang tôi sang Campuchia để bán thận lấy tiền.

Thực ra trong 5 ngày đêm đó khi họ giám sát tôi hoặc chở tôi đi trên đường thì tôi cũng có cơ hội bỏ trốn nhưng tôi không thể và không dám bỏ trốn, vì họ biết quá rõ về công việc của tôi, về gia đình của tôi. Tôi lo sợ khi tôi bỏ trốn thì họ sẽ tìm gặp những người nhà tôi, đặc biệt là vợ tôi đang mang thai tháng thứ 8 thì không biết hậu quả gì sẽ xảy ra?

Đấu trí căng thẳng và cuộc giải cứu ngoạn mục


Bà T.A: Từ sáng ngày 8/7 khi vừa xảy ra vụ việc thì anh K có gọi điện nhắn tin cho tôi, nói rằng đừng đến công ty nữa vì có nhóm người đến đây uy hiếp ảnh. Trong buổi chiều hôm đó, tôi có gọi điện cho chồng nhiều lần nhưng không được. đến khoảng 5 – 6 giờ chiều thì anh K nhắn tin cho tôi rằng, bị nhóm người đó áp giải đi. Nhưng vì lúc đó anh K không biết mình bị bắt giữ vì chúng đưa lòng vòng đi các con đường ở TP.HCM. Đến khoảng 23 giờ đêm khi có tin nhắn của anh K cho Cảnh thông báo đang bị bắt và có biết là địa điểm ở quận 2 thì ngay lập tức tôi đến công an phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1 trình báo. Đến sáng hôm sau, tôi đến trực tiếp phòng hình sự (tức Phòng CSĐT tội phạm về TTXH, PC45, công an TP.HCM – P.V) để trình báo.

P.V: Họ gọi điện cho bà để yêu cầu chung chi tiền bạc chuộc chồng bà về như thế nào? Bà có thể nói rõ hơn về những cuộc điện thoại đó không?

Bà T.A: Trong những ngày đầu hầu như tôi bị mất liên lạc với chồng. Sau đó số ĐTDĐ anh K gọi về thì là giọng của anh ấy, nói rằng nhóm bắt cóc yêu cầu 35 triệu đồng. Tiếp theo cũng là số điện thoại của anh K nhưng lại là giọng của một người lạ nói chuyện, yêu cầu tôi phải chuẩn bị 200 triệu đồng để chuộc chồng về.

Khi tôi nói là không có tiền thì họ nói vậy thì phải đưa sổ đỏ của ngôi nhà tôi đang ở. Họ yêu cầu nếu ai đứng tên chủ của ngôi nhà thì phải cùng ra phòng công chúng để làm thủ tục sang tên đổi chủ

P.V: Họ có hù dọa bà qua điện thoại không?

Bà T.A: Có chứ. Họ có hăm dọa lớn tiếng, chửi thề rằng, nếu tôi không chịu lo tiền bạc thì anh K phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Họ có nói đưa anh K đi xử luôn nhưng tôi không nhớ rõ lắm về việc này. Tôi có nói là chỉ xoay sở được 65 triệu đồng thì họ yêu cầu tôi chung chi tiền mặt trước, chuyện sổ đỏ tính sau

P.V: Kế hoạch việc chung chi như thế nào?

Bà T.A: Đêm 11/7 chúng bắt tôi phải ra một địa điểm ở cầu Sài Gòn, đoạn phía bên quận 2 để giao trước tiền mặt. Lúc này theo yêu cầu của cơ quan công an, tôi nại lý do là đang bụng mang, dạ chửa nên không đi lại nhiều được (bà T.A đang mang thai tháng thứ 8 – P.V). Khi nói chuyện qua điện thoại như thế thì chúng tức giận, cúp máy luôn.

Sáng hôm sau (tức 12/7) chúng lại sử dụng số ĐTDĐ của anh K để liên lạc với tôi. Tôi có hẹn một địa điểm nào đó ở quận 1 thì người nói điện thoại với tôi có vẻ cáu giận, cúp máy nữa. Tôi có gọi lại số của anh K, thì gặp một giọng lạ nên tôi nói là địa điểm ở quận 1 thì họ đồng ý và yêu cầu phải đến ngay công ty của chồng tôi để giao tiền. Tôi không đồng ý và yêu cầu phải ra quán cà phê thì chúng nói thẳng là phải ra quán cà phê Cỏ Mây, ngay gần công ty để chuyển tiền luôn.
d
6 đối tượng bị bắt giữ vì dính dáng đến vụ bắt cóc 1 giám đốc doanh nghiệp ở TP.HCM nhằm tống tiền: Ngô Quốc Tiến, Đỗ Văn Cường, Trương Ngọc Minh, Đỗ Thị Mai, Đỗ Tiến Nhật, Đỗ Văn Hải (từ trái qua phải)

P.V: Bà có thể kể chi tiết về việc xảy ra ở quán cà phê Cỏ Mây, lúc bà đến giao tài sản theo yêu cầu của nhóm bắt cóc, tống tiền và cơ quan công an ập vào bắt giữ chúng, giải cứu chồng bà?

Bà T.A: Theo lời nhóm bắt cóc hẹn thì 12 giờ trưa 12/7 tôi có mặt tại quán để ngồi đợi. Sau này tôi mới biết chúng đã đến ngồi đó từ trưa, nhưng mãi đến gần 17 giờ chiều thì mới xuất hiện.

Ban đầu là 2 người đàn ông ngồi vào bàn của tôi. Họ kiểm tra tôi có mang theo tiền hay không? Và bắt chuyển tiền ngay. Nhưng tôi đòi phải giao anh K đến thì tôi mới giao tiền thì 1 người móc ĐTDĐ ra và gọi điện cho đồng bọn, vài phút sau thì 1 người đàn ông khác dẫn anh K vào quán cà phê đến ngồi cùng bàn với tôi luôn. Lúc này họ đưa ra một giấy nợ ghi trong ngày 12/7 ghi là chồng tôi nợ Ngô Quốc Tiến 628 triệu đồng, bắt tôi phải ký vào giấy nợ đó. Khi tôi giao 65 triệu đồng cho chúng thì các anh công an ập vào bắt giữ.

3 người ngồi tại bàn và 1 người ngồi bàn khác bị các anh công an bắt. Khi giải chúng ra xe về công an làm việc, anh K có nói còn 2 người khác gồm 1 nam, 1 nữ đứng bên đường thì các anh công an truy bắt giữ ngay sau đó.

 Thông tin từ đội 2, phòng CSĐT tội phạm về TTXH (PC45) công an TP.HCM, hiện cơ quan này đã bàn giao 6 đối tượng cùng toàn bộ hồ sơ cho công an quận 1 tiếp tục mở rộng điều tra vụ án. Tính đên nay, cơ quan công an đã bắt giữ 6 người gồm: Đỗ Tiến Nhất (SN 1976; quê tỉnh Nam Định, ngụ quận 2), Ngô Quốc Tiến (SN 1979, ngụ quận 8, là giám đốc DNTD K.H tại đường Nguyễn Đình Chiểu, phường đa kao, quận 1), Đỗ Hải Văn (anh ruột của Nhất, SN 1957; ngụ quận 2, từng có tiền án về tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”), Trương Ngọc Minh (SN 1967, quê TP. Hải Phòng, ngụ tỉnh Bình Dương), Đỗ Thị Mai (SN 1967, quê TP.Hải Phòng, ngụ quận 2, TP.HCM) và Đỗ Văn Cường (tự Hạnh, SN 1967, quê tỉnh Tiền Giang, ngụ quận 4, TP.HCM) để điều tra, xử lý về hành vi “bắt giữ người trái pháp luật” và “cưỡng đoạt tài sản”.

Anh Duy (thực hiện).
chia sẻ bài viết
Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn copy link
Tác giả:
Từ khóa:
Tin nên đọc