Con ruột là những người con được cha mẹ trực tiếp sinh ra, có huyết thống từ cha mẹ. Đó có thể là con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc quan hệ ngoài giá thú. Quan hệ cha mẹ và con ruột có vai trò quan trọng trong việc xác định quyền, trách nhiệm của cha mẹ đối với con đẻ và ngược lại, quyền và nghĩa vụ của con đối với cha mẹ đẻ. Một trong số đó chính là quyền thừa kế.
Theo Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của bản thân, để lại tài sản cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cá nhân sẽ không được hưởng di sản thừa kế, dù có quan hệ hôn nhân, huyết thống với người để lại di sản.
Không còn sống hoặc chưa thành thai
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản qua đời. Đây là nội dung được quy định cụ thể tại Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015.
Như vậy, ở thời điểm mở thừa kế của cha mẹ, nếu con chưa thành thai hoặc còn sống thì sẽ không được hưởng thừa kế.
Bị kết án về hành vi vi phạm quyền của cha mẹ
Những trường hợp không được hưởng thừa kế theo quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 bao gồm:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Lưu ý, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người thừa kế nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc thì người đó vẫn được hưởng di sản.
Con ruột không có tên trong di chúc
Di chúc thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi qua đời (theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015).
Bên cạnh đó, Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 cũng có quy định về trường hợp người thừa kế không phụ thuộc theo di chúc. Theo đó, con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động vẫn được hưởng thừa kế trong trường hợp người lập di chúc không cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp này, người hưởng thừa kế theo quy định trên sẽ được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.
Lưu ý, quy định trên không áp dụng trong 2 trường hợp. Một là người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015. Hai là người nhận thuộc những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2015.
Như vậy, trường hợp cha mẹ để lại di sản có di chúc nhưng trong di chúc không đề cập đến việc để lại tài sản cho con thành niên có khả năng lao động thì người con sẽ không không được hưởng thừa kế bất kỳ tài sản nào theo nội dung di chúc.
Người con bị truất quyền thừa kế
Người lập di chúc có quyền sau: Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; Phân định phần di sản cho từng người thừa kế; Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; Giao nghĩa vụ cho người thừa kế; Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. Đây là nội dung quy định tại khoản 1 Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015.
Như vậy, người thừa kế dù có đủ điều kiện thừa kế nhưng bị người để lại di sản truất quyền thừa kế ngay trong di chúc thì người thừa kế sẽ không có quyền nhận di sản.