Nhẫn móng tay (hộ giáp)
Dù là fan của dòng phim cung đấu thời nhà Thanh hay chỉ xem thoáng qua, nhiều khán giả vẫn rất ấn tượng với "nhẫn móng tay" của các vị phi tần mỹ nữ. Nhìn bề ngoài, vật này có vẻ làm bằng kim loại, trang trí tinh xảo, đeo ở các ngón tay. Nó dài và nhọn hoắt, "đung đưa" nhiệt tình khi các phi tần hành lễ hay... đấu khẩu với nhau!
Nhưng thực tế, có đúng là nhà Thanh ưa chuộng loại phụ kiện kỳ lạ đó không? Và mục đích của nó làm gì? Để tự vệ, hay để làm bằng chứng sống cho câu nói "vỏ quýt dày có móng tay nhọn"?
Nhẫn móng tay còn được gọi là "móng tay giả" hay "hộ giáp". Nó đã xuất hiện rất lâu, từ tận thời Chiến quốc. Người Trung Quốc xưa quan niệm rằng tóc, móng tay là của cha mẹ sinh ra, vì vậy tránh cắt đi mà cứ để chúng mọc dài tự nhiên.
Tóc thì không sao, nhưng móng tay mọc dài rất vướng víu, dễ gãy. Vì vậy, người ta bắt đầu chế ra "hộ giáp" với mục đích đơn thuần ban đầu là bảo vệ phần móng tay dài. Và chỉ có người xuất thân cao quý, thuộc tầng lớp trung lưu trở lên mới "nuôi" móng tay dài và dùng hộ giáp. Không chỉ phụ nữ thôi đâu mà cả nam nhân cũng có thể dùng phục sức này.
Lâu dần thành thói quen, hộ giáp đã trở thành thứ phụ kiện biểu trưng cho vẻ đẹp và quyền lực của các bậc cao cao tại thượng, là phục sức không thể thiếu của phái nữ (vì họ ở khuê phòng, ít ra ngoài nên dễ "nuôi" móng tay hơn).
Đến thời nhà Thanh, hộ giáp lại được nâng tầm và gắn liền với phi tần mỹ nữ chốn cung đình. Nó không còn món đồ bảo vệ móng đơn thuần mà là dấu hiệu phân cấp địa vị, quyền lực. Hoàng hậu, quý phi dùng hộ giáp bằng vàng, bạc, ngọc trai, mai rùa,... Các phi tần thứ bậc thấp thì dùng hộ giáp bằng đồng, ngà, men sứ... Họa tiết chạm khắc trên hộ giáp cũng vô cùng tinh xảo, hoàng hậu chạm khắc hình phượng hoàng. Hộ giáp của Thái hậu lại khắc hình chữ "vạn", chữ "thọ". Một số hộ giáp còn có thể uốn cong theo khớp ngón tay.
Đặc biệt, Từ Hy Thái hậu từ người bảo dương hộ giáp của mình kĩ càng nhất. Theo tự truyện của một cung nữ từng theo hầu hạ bà tiết lộ, Từ Hy ngày đeo hộ giáp vàng ở bàn tay phải, hộ giáp ngọc trai ở tay trái. Đêm ngủ thay bằng loại hộ giáp "ít lấp lánh" hơn. Bà đều đeo chúng ở ngón út và ngón áp út, mỗi cái dài từ 5 - 7cm. Từ Hy bảo vệ móng tay lẫn hộ giáp vô cùng cẩn thận. Mỗi ngày đều sai cung nữ rửa bằng nước nóng, sau đó dùng nước bóng từ Pháp đánh lên. Dù vậy, khi về già, móng tay dĩ nhiên "héo úa", xỉn màu. Ban đầu Từ Hy trách tội hạ nhân đã lơ là trách nhiệm. Nhưng cuối cùng bà nhận ra không thể chống lại quy luật tất yếu của thời gian. Lúc này Từ Hy Thái hậu mới chịu cắt móng tay thường xuyên.
Nắm được vai trò của hộ giáp từ thực tế, các nhà làm phim đã khéo léo đưa chúng lên màn ảnh nhỏ. Mục đích vừa thể hiện hình ảnh đặc trưng của triều nhà Thanh, lại vừa tăng độ ấn tượng nơi bàn tay của các vị nương nương. Ví dụ như trong Diên Hi Công Lược, những lần hành lễ "đỏng đảnh" của Cao Quý phi, cái nhịp tay tính toán mưa kế của Nhàn Phi... đều là những chi tiết nhỏ nhưng phô bày độ sắc sảo của phục sức, giúp khắc họa tính cách nhân vật.
Dây đeo trên trang phục (Áp khâm)
Món đồ hay được các nương nương đeo trước ngực có tên gọi là Áp khâm - một loại trang sức lưu hành dưới thời Minh Thanh, làm từ những chất liệu đá quý như hạt châu, ngọc hoặc tơ tằm, kim loại tùy vào địa vị, thân phận của chủ nhân. Áp khâm được đeo trên chiếc nút cài thứ hai tính từ cổ xuống của vạt áo bên phải. Những mỹ nhân trong Diên Hi công lược cũng đeo áp khâm khi diện Kỳ bào. Món phụ kiện này được kết từ nhiều hạt tròn, có thể dùng làm một loại vòng tay, tùy mục đích sử dụng.
Ban đầu, Áp khâm được làm hoàn toàn từ kim loại, thường là bạc, dài 28cm, nặng 40g. Phần trên khép kín gọi là hoa lam, bên trong hoa lam có khi được đặt thêm hương liệu như trầm hương, đàn hương, long não,... Phần đuôi kiểu sợi chuỗi buông tỏa gọi là ngân liên. Về sau dần dần xuất hiện kiểu áp khâm chuỗi hạt và có phần đuôi làm từ tơ. Bên cạnh việc làm đồ trang sức, Áp khâm còn có một công dụng để giữ cố định cho vạt áo không bị xộc xệch khi di chuyển, giữ sự kín đáo tinh tế cho người dùng (Áp là giữ, đè chặt, Khâm là vạt áo).
Bộ ba cặp hoa tai (Nhị)
Đây cũng được coi là một trong những trang sức đặc trưng thời nhà Thanh. Theo truyền thống người Mãn, Hậu phi đều xỏ 3 lỗ ở tai và đeo 3 viên trang sức hoa tai vào khi mặc Triều phục. Theo quy chế, hình hoa tai của tần phi đều có hình rồng làm bằng vàng, ngoài ra còn sức trân châu mỗi bông 2 viên, tuy nhiên chất lượng trân châu tùy cấp bậc mà khác biệt như Hoàng hậu sẽ đeo hoa tai dùng nhất đẳng Trân châu, Hoàng quý phi và Quý phi dùng nhị đẳng Trân châu, các nàng Phi dùng tam đẳng Trân châu, còn Tần thì dùng tứ đẳng Trân châu.
Kiềng đeo cổ (Lãnh ước)
Kiềng đeo trên cổ Triều phục là một điểm để phân giai cấp trong Hậu cung, giữa những cấp bậc khác nhau. Hoàng hậu có 11 Đông châu, ở giữa lấy San hô, dây rũ ở 2 đầu dùng màu Minh hoàng, ở giữa các dây sức San hô, ở đuôi các dây sức đá Ngọc lam. Hoàng quý phi có 7 Đông châu, ở giữa lấy San hô, dây rũ ở 2 đầu dùng màu Minh hoàng, ở giữa các dây sức San hô, ở đuôi các dây cũng sức San hô. Các quý phi sẽ diện màu dây là Kim hoàng, còn lại như Hoàng quý phi.
Các mỹ phẩm làm đẹp
Từ lâu, ngoài những bí ẩn về cuộc đời của những nữ nhân Trung Hoa cổ đại thì chuyện sinh hoạt đời thường như tắm gội của họ cũng khiến không ít người tò mò.
Và có một sự thật bất ngờ rằng, họ, những nữ nhân "rườm rà" với những bộ cánh thừa vải rất thường xuyên tắm gội. Vào đầu thời Tần, những người phụ nữ Trung Hoa thực hiện "ba ngày một lần gội, năm ngày một lần tắm", cho đến thời Hán thì thậm chí họ còn có một ngày riêng để tắm, được gọi là "hưu mộc", 5 ngày một lần, vào ngày này, giống hệt như một ngày nghỉ trong tuần, họ sẽ gác lại hết công việc mà dành phần lớn thời gian cho tắm rửa. Đến thời Đường thì thời gian được kéo dài ra thành 10 ngày.
Tắm thì muôn đời phải dùng nước, nhưng thay vì có nước máy, nước giếng như ngày nay, thì phụ nữ Trung Hoa cổ đại dùng nước ở các sông hồ, chỗ nước trong mà lấy nước tắm hoặc gội. Chưa kể, cũng từ việc tắm rửa ở ao hồ như vậy, nên vô tình họ đã phát hiện ra loại "xà phòng" vô cùng tốt cho da đó chính là đất sét. Họ thường dùng đất sét, chà xát lên da sau đó rửa sạch bằng nước. Nhưng đất sét chỉ có thể làm sạch những vùng da "già" như tay chân, vì thế da mặt họ không thể dùng đất sét để rửa. Thay vào đó, họ sử dụng bùn trong các ao hồ, ủ qua đêm để loại bỏ các chất gây hại xong sử dụng để rửa mặt. Thậm chí họ còn dùng loại bùn ủ giàu chất "kiềm" này để giặt đồ và gội đầu.
Đến thời nhà Đường, thời đại sản sinh ra nữ hoàng duy nhất của Trung Hoa là Võ Tắc Thiên, người ta đã sáng chế ra một cách khác để làm sạch thân thể khi tắm rửa gội đầu đó là dùng tro của bồ kết. Họ sớm phát hiện ra rằng, bồ kết có tác dụng rất tốt cho mái tóc, lại sản sinh ra nhiều bọt khi sử dụng vì vậy vào tháng 10 hàng năm họ hay đi thu hoạch trái bồ kết khô về nghiền nát, sau đó đun chín rồi trộn với bột mì và hương liệu, vo thành từng viên rồi mang phơi khô một lần nữa, xong cứ mỗi khi tắm hay gội đầu thì mang ra sử dụng. Có thể nói tìm ra công dụng quả bồ kết quả là một phát minh vĩ đại của phụ nữ xưa, bởi lẽ cho đến tận ngày nay, quả bồ kết vẫn là sự lựa chọn của rất nhiều phụ nữ yêu mái tóc đen mượt truyền thống!
Về sau, họ còn cải tiến tro của bồ kết để có thể dùng luôn vào việc đánh răng. Tới thời nhà Tống thì phụ nữ sử dụng sáp ong nấu chảy, xong dùng hương liệu từ tinh dầu của các loại hoa trộn vào, đổ hỗn hợp trên vào khuôn đợi chúng đông đặc lại rồi sau đó cứ thể mà sử dụng như xà phòng ngày nay.
Thậm chí, về sau, người Trung Hoa cổ đại còn phát minh ra loại "xà phòng" khác có tên là "tảo đậu", bằng cách lợi dụng các enzim tiêu hóa trong tuyến tụy của loài lợn để gây nên hiệu ứng bọt. Cụ thể là họ tách mỡ hết bao tụy tạng heo, rửa sạch máu bầm, rồi nghiền nát như cháo, sau đó trộn với bột đậu cùng hương liệu, vo viên nhỏ và phơi khô. Rồi nếu muốn tắm hoặc giặt giũ họ chỉ cần dùng một viên chà xát lên da hoặc ngâm trong nước rồi sử dụng như "xà phòng" ngày nay. Loại tảo đậu này có công dụng rất tốt cho da, kháng khuẩn, làm sạch quần áo thậm chí là có mùi hương tự nhiên rất dễ chịu dù cho được lấy từ nội tạng lợn. Nhưng vì làm ra không dễ nên ngày đó, giá thành của loại "xà phòng cổ đại" này hơi cao.
Ai đẹp nhất trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa?
Tây Thi – Mỹ nhân trầm ngư (cá lặn đi trốn)
Tây Thi, tên là Thi Di Quang, là con một người kiếm củi. Nàng dệt vải ở núi Trữ La, thuộc nước Việt thời Xuân Thu. Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, nàng Thi là người ở thôn Tây, vậy nên gọi là Tây Thi.
Tương truyền Tây Thi đẹp đến nỗi, ngay cả khi nàng nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn. Khi nàng đi hái củi ở ngọn núi gần làng, những con chim ưng bay trên trời nhìn thấy Tây Thi quên mất cả vỗ cánh nên rơi xuống đất.Khi nàng giặt áo bên bờ sông, bóng nàng soi trên mặt nước sông trong suốt làm nàng thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên bơi, dần lặn xuống đáy sông.
Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng là "Tây Thi Trầm Ngư". Mắt nàng trong suốt, mày nàng phương phi, miệng chúm chím.
Trong trận đánh quyết tử với nước Ngô, do không nghe lời can gián của Văn Chủng và Phạm Lãi nên vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, bị bên Ngô bắt sang làm con tin. Câu Tiễn quyết chí trả thù, trước khi Câu Tiễn sang Ngô, Văn Chủng đã hiến cho vua 7 kế, trong đó có "Mỹ nhân kế" - dâng người đẹp mê hoặc vua Ngô.
Trong vòng nửa năm, Câu Tiễn âm thầm sai Phạm Lãi tuyển 2.000 mỹ nữ, trong đó có Tây Thi. Mặc dù trên đường sang Ngô, nàng và Phạm Lãi đã phải lòng nhau nhưng không bộc lộ ra mặt mà luôn trung thành giúp sức cho Câu Tiễn vốn đang nhịn nhục tìm cách trả thù.
Vua Ngô, Phù Sai, là một vị vua anh hùng, nhưng từ khi Tây Thi xuất hiện lại lơi lỏng việc nước, bỏ bê chính sự, ngày đêm cùng nàng chìm đắm trong xa hoa, hưởng lạc, dần mất hết ý chí.
Sau khi sống với Phù Sai lâu năm, Tây Thi đã dần yêu Phù Sai thật sự. Tây Thi cùng Ngũ Tử Tư, người chống đối Tây Thi khi nàng mới vào cung nhưng sau này đã nể nàng vì văn chương uyên bác và có lòng thành thật sự với nhà vua, khuyên nhà vua không nên đánh Tề.
Lúc này Phù Sai đã tín nhiệm Câu Tiễn cộng với tham vọng làm bá chủ thiên hạ nên đã ra quân đánh Tề, làm hao tổn nhân lực, thực phẩm, nhiều người chết. Trong khi đó Câu Tiễn thừa cơ hội đánh úp và đã chiến thắng chiếm được Ngô, thỏa mộng trả thù.
Vương Chiêu Quân - Mỹ nhân lạc nhạn (chim nhạn sa)
Vương Chiêu Quân được coi là "á hậu" trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc, vẻ đẹp chỉ xếp sau Tây Thi. Nàng là một trong hai đại mỹ nhân của triều Hán. Cùng với nàng Triệu Phi Yến, Chiêu Quân đi vào lịch sử như một người đẹp có nhiều cống hiến cho hòa bình giữa người Hán và người Hung Nô.
Vương Chiêu Quân tên thật là Vương Tường, sinh ra trong một gia đình thường dân ở Hồ Bắc. Khoảng năm 40 TCN, đời Hán Nguyên Đế, vì xinh đẹp nức tiếng nên nàng được tuyển vào nội cung. Khi nhập cung đổi tên thành Vương Chiêu Quân. Chiêu Quân thông thạo tứ nghệ gồm: cầm, kỳ, thi, họa, đặc biệt nàng có biệt tài gảy đàn tỳ bà, do đó trong tranh Chiêu Quân thường xuất hiện với một vẻ đẹp u buồn, choàng khăn đỏ, mặc áo lông, ôm đàn tỳ bà, cùng với một con bạch mã.
Tương truyền, vì số phi tần trong hậu cung của Hán Nguyên Đế quá đông nên hoàng đế ra lệnh cho các họa sĩ phải vẽ hình các cung phi để hoàng đế chọn. Vì từ chối đút lót cho họa sĩ là Mao Diên Thọ, hậu quả bức chân dung vẽ Chiêu Quân thật xấu xí nên nàng không được Nguyên Đế để mắt tới.
Năm 33 TCN, thủ lĩnh Hung Nô là Hô Hàn Tà đến kinh đô Trường An để tỏ lòng thần phục nhà Hán và đề nghị được trở thành con rể của Hán Nguyên Đế. Thay vì gả một công chúa cho thiền vu thì Hô Hàn Tà đã được ban cho 5 cung nữ chọn từ hậu cung.
Thời đó xứ Hung Nô xa xôi cách trở, một đi không hẹn ngày trở về, người dân Hung Nô sống du mục trên các hoang mạc khô cằn, vì thế các cung nữ không ai dám sang. Duy chỉ có Vương Chiêu Quân bước ra tình nguyện lấy Hô Hàn Tà.
Đến ngày hôn lễ giữa Hô Hàn Tà và Chiêu Quân, Nguyên Đế thấy nàng xinh đẹp nên rất hối tiếc. Ông bèn hạ lệnh mang bức tranh nàng ra xem, thì thấy bức tranh do họa sĩ Mao Diên Thọ vẽ không giống chân dung thật, bèn sai xử trảm Thọ.
Chiêu Quân lấy Hô Hàn Tà, tuy được sủng ái nhưng nàng luôn canh cánh nỗi buồn nhớ quê hương. Năm 31 TCN, Hô Hàn Tà chết, theo tập quán nối dây của người Hung Nô, Chiêu Quân trở thành phi tần của thiền vu tiếp theo là Phục Chu Luy Nhược Đề, con trai lớn của Hô Hàn Tà.
Công lao của Chiêu Quân không chỉ ở việc nàng tự nguyện gả sang Hung Nô, hơn thế nữa sau khi thành hôn với hai đời Thiền Vu, chính nhờ tài sắc và sự khéo léo của nàng là nhân tố chính duy trì nền hòa bình giữa nhà Hán và Hung Nô kéo dài trên 60 năm, tránh cho dân lành kiếp nạn binh đao.
Truyền thuyết "Chiêu quân xuất tái" (Đi đến biên cương) tả rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn "Xuất tái khúc".
Một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Điển tích "mỹ nhân lạc nhạn" do đó mà có.
Điêu Thuyền – Mỹ nhân bế nguyệt (Trăng thẹn phải trốn đi)
Điêu Thuyền, họ Nhiệm, tên Hồng Xương, sinh ở thời Đông Hán. 15 tuổi vào cung làm nữ tỳ chuyên phục vụ coi sóc trang phục cho các quan trong triều, do vậy sau này đều gọi nàng là Điêu Thuyền (là chức danh thời đó). Nàng được đánh giá xếp thứ 3 trong số 4 mỹ nhân nổi tiếng Trung Quốc.
Điêu Thuyền là bậc quốc sắc thiên hương, khuynh nước khuynh thành, thông minh hơn người. Tương truyền suốt 3 năm sau khi nàng ra đời, tất thảy hoa đào trong thôn nàng ở không nở hoa, vì thấy hổ thẹn trước sắc đẹp của nàng. Có lần đêm khuya, nàng đi dạo thưởng trăng, Hằng Nga thấy mình không sánh nổi, vội vã trốn sau mây, vì vậy Điêu Thuyền còn được gọi là mỹ nhân bế nguyệt. Khác với Dương Quý Phi gắn với vẻ đẹp tròn trịa theo tiêu chuẩn thời Đường, Điêu Thuyền lại là mỹ nhân có dáng mạo mỏng manh, thướt tha như liễu rủ, cử chỉ điệu bộ vô cùng trang nhã, thanh tú, mỗi bước chân của nàng nhẹ nhàng như đang lướt trên mây.
Năm 190, Lạc Dương có loạn chư hầu, vua tôi tán loạn tháo thân, Điêu Thuyền chạy ra khỏi cung, sau được quan tư đồ Vương Doãn thu nạp về phủ, nhận làm con gái nuôi. Vương Doãn là quan to trong triều Hán nhưng quyền lực khi đó thuộc về thái sư Đổng Trác.
Trác có người con nuôi là Lã Bố sức khỏe địch muôn người nên trong triều không ai dám cãi. Nhận thấy sắc đẹp, tài trí và lòng hiếu thảo của Điêu Thuyền, tư đồ Vương Doãn nảy ra kế liên hoàn được sắp đặt công phu nhằm ly gián cha con Đổng Trác và Lã Bố.
Vương Doãn một mặt mời Lã Bố đến phủ, sai Điêu Thuyền quyến rũ Lã Bố, mặt khác gả Điêu Thuyền cho Đổng Trác sau đó vu cho ông bố nuôi phỗng tay trên khiến Lã Bố căm tức, phẫn nộ. Vì mê mệt sắc đẹp của Điêu Thuyền, năm 192, được sự giúp đỡ của Vương Doãn, Lã Bố nhân cơ hội thuận lợi để giết gã gian thần Đổng Trác. Chính kế sách ly gián của Vương Doãn và Điêu Thuyền đã giết Đổng Trác, là việc mà 18 lộ chư hầu binh hùng tướng mạnh của Viên Thiệu không làm được.
Dương Quý Phi – Mỹ nhân tu hoa (Hoa thẹn vì không đẹp bằng)
Dương Quý Phi, tên thật là Dương Ngọc Hoàn (719- 756), sắc đẹp tuyệt trần, tinh thông ca vũ, được hậu thế tôn vinh là một trong tứ đại mỹ nhân lịch sử Trung Hoa.
Mồ côi cha mẹ khi mới lọt lòng, cô bé Ngọc Hoàn bị mang tiếng cao số, khắc song thân, may có người chú làm quan ở Hà Nam nhận về nuôi dưỡng, nhờ đó Ngọc Hoàn mới thoát khỏi kiếp nạn làm trẻ mồ côi, bị bơ vơ ghẻ lạnh. Từ Thục Châu đến Hà Nam, không chỉ cho Ngọc Hoàn một mái ấm gia đình, mà đây còn là bước ngoặt thay đổi số mệnh của nàng.
Năm 734, con gái của Đường Huyền Tông là Cảm Nghĩa công chúa mở tiệc thành hôn, Ngọc Hoàn may mắn được tham dự. Tối đó, bị tiếng sét ái tình trước sắc đẹp của Ngọc Hoàn, em trai của Cảm Nghĩa công chúa là Thọ Vương Lý Mạo về đòi mẹ là Võ Huệ Phi (phi tử được sủng ái nhất của Đường Huyền Tông) cưới bằng được Ngọc Hoàn và phong nàng là Thọ Vương Phi.Bước chân vào phủ Lý Mạo, Ngọc Hoàn có cơ hội được học đàn hát, ca múa, và các phương pháp làm đẹp vốn chỉ dành cho phụ nữ thượng lưu thời đó.
Năm 737, mẹ chồng của Ngọc Hoàn là Võ Huệ Phi qua đời. Thấy Huyền Tông đau xót trước cái chết của ái phi, không màng sủng ái bất cứ phi tần nào trong tam cung lục viện, có người tiến cử với Huyền Tông "Dương Ngọc Hoàn có sắc đẹp tuyệt trần".
Theo ghi chép của "Tân Đường Thư" , tháng 10/740, Huyền Tông lấy danh nghĩa cầu phúc cho mẫu thân là Đậu Thái Hậu, ra ý chỉ lệnh Dương Ngọc Hoàn xuất gia làm nữ đạo sĩ, đạo hiệu là "Thái Chân", đồng thời chỉ hôn con gái của Vĩ Chiêu Huấn cho Lý Mạo, thế làm Thọ Vương Phi, sau đó mới lập Dương Ngọc Hoàn làm Quý Phi, phế bỏ Vương Hoàng Hậu, từ đó trong cung Dương Quý Phi cũng tương đương như hoàng hậu.
Sau khi hợp thức hóa được việc biến con dâu thành phi tần của mình, Đường Huyền Tông hết mực say đắm, sủng ái Ngọc Hoàn. Ông còn tuyên bố trước toàn thể hậu cung: "Trẫm có được Dương Quý Phi, giống như có được bảo vật".
Thời Đường, khi xã hội phát triển phồn thịnh về mọi mặt, người phụ nữ được cho là đẹp, hấp dẫn thì phải tròn trịa, mập mạp. Trong thành ngữ tiếng Hoa ngày nay vẫn còn câu: Yến ốm Hoàn mập. Yến là chỉ người đẹp thời Hán: Triệu Phi Yến, Hoàn là chỉ Dương Ngọc Hoàn thời Đường.
So với 3 người đẹp trong Tứ đại mỹ nhân, Dương Quý Phi Ngọc Hoàn có sắc đẹp được ví là "tu hoa", nghĩa là sắc đẹp của nàng khiến hoa phải xấu hổ. Sau khi vào cung, Ngọc Hoàn buồn nhớ quê hương, nhớ gia đình. Một ngày, nàng đến hoa viên thưởng hoa giải khuây, nhìn thấy hoa Mẫu Đơn, Nguyệt Quý nở rộ, nghĩ rằng mình bị nhốt trong cung, uổng phí thanh xuân, bèn than thở: "Hoa ơi hoa à, ngươi mỗi năm mỗi tuổi đều có lúc nở, còn ta đến khi nào mới có được ngày ấy?".
Lời chưa dứt nước mắt đã tuôn rơi, nàng vừa sờ vào hoa, hoa chợt thu mình, lá xanh cuộn lại. Nào ngờ, nàng sờ phải loại hoa trinh nữ (cây xấu hổ). Lúc này, một cung nữ nhìn thấy, người cung nữ đó đi đâu cũng nói cho người khác nghe việc ấy. Từ đó, mọi người gọi Dương Ngọc Hoàn là "mỹ nhân tu hoa".