Cũng giống như các thời đại khác, ở thời phong kiến, người phạm tội sẽ bị xử phạt. Chém đầu chính là hình phạt nặng nhất dành cho phạm nhân thời đó. Tuy nhiên việc chém đầu không phải lúc nào cũng có thể thực hiện mà phải làm theo quy định. Một trong số những quy định mà chúng ta thường thấy trên các bộ phim chính là thời gian thi hành án. Các vị quan luôn chọn giờ Ngọ ba khắc để hành quyết phạm nhân.
Thời Đường, Tống có quy định: Mỗi một năm từ tiết lập xuân đến thu phân, các tháng Giêng, 5, 9; các ngày đại tế, ngày rơi vào 24 tiết khí, ngày trai giới, ngày mùng một, rằm, thượng huyền, hạ huyền và mùng 8, 23, 24, 28, 29, 30 thì không được thi hành án tử hình.
Ngoài ra, khi Mặt trời chưa mọc, mưa chưa tạnh cũng không được hành hình. Do đó, mỗi năm chỉ có chưa đến 80 ngày có thể chém đầu phạm nhân.
Đến thời nhà Minh, nhà Thanh cũng đặt quy định tương tự như nhà Đường, Tống nhưng không có quy định giờ giấc cụ thể.
Giờ Ngọ ba khắc là gì?
Thời xưa, con người chưa có đồng hồ nên họ chỉ có cách dựa vào hiện tượng thiên văn, lịch sinh hoạt của động vật để tính thời gian. Người Trung Quốc tính giờ theo 12 con giáp. Trong đó, "thời" và "khắc" được dùng như 2 đơn vị để phân chia thời gian. Cụ thể, một ngày được chia thành 12 thời, mỗi thời là 2 tiếng và phân thành 100 khắc, mỗi khắc là 15 phút. Họ dùng cách khắc vạch lên thùng nước, rồi đục lỗ để nước nhỏ xuống, sau một ngày đêm thì nước trong thùng sẽ rỏ hết.
Trong sách "Thuyết văn giải tự" của học giả Hứa Thận thời Đông Hán đã chép rằng: "Về khắc tiết, trú dạ trăm khắc". Nghĩa là trong một ngày đêm có tổng cộng 100 khắc được chia đều. Mỗi khắc là 14,4 phút (tương đương với 15 phút bây giờ).
Trong 12 thời thì thời đầu tiên là giờ Tý bắt đầu từ 23 giờ tới 1 giờ sáng, giờ Hợi là giờ cuối cùng tính từ 21 giờ đến 23 giờ. Theo cách tính này thì giờ Ngọ tương đương với 11 giờ đến 13 giờ.
Như vậy, giờ Ngọ ba khắc tức là 11 giờ 45 phút theo thời gian của thời hiện đại.
Giờ Ngọ ba khắc có gì đặc biệt?
Giờ Ngọ ba khắc là thời điểm gần 12 giờ trưa, cũng là lúc Mặt trời đứng bóng, các loại bóng trên mặt đất thu lại ngắn nhất. Người Trung Quốc xưa cho rằng giờ Ngọ ba khắc là lúc Mặt trời mạnh nhất, dương khí đạt cực đại và âm khí bị suy yếu nhất.
Vì sao phạm nhân bị hành hình vào giờ Ngọ ba khắc?
Theo các nhà sử học, người Trung Quốc xưa chọn giờ Ngọ ba khắc làm thời điểm hành hình phạm nhân bắt nguồn từ 2 nguyên nhân chính.
Thứ nhất là dựa trên quan điểm tâm linh. Người xưa cho rằng việc sống chết của con người là do thần linh quyết định. Khi một người chết đi, linh hồn của người đó sẽ biến thành một âm hồn. Âm hồn này sẽ phải xuống Âm phủ để chuyển sang một kiếp khác.
Sau khi một người chết đi, Diêm Vương sẽ cử quân lính của mình lên trần gian để áp giải họ về. Người Trung Quốc xưa tin rằng, vào thời điểm giờ Ngọ ba khắc là lúc dương khí mạnh nhất, nó sẽ trấn áp được âm khí của phạm nhân bị xử chém. Dương khí còn khiến hồn ma yếu đi và các binh lính của Diêm Vương sẽ dễ dàng đưa người chết xuống Âm phủ.
Ngoài ra, giờ Ngọ ba khắc còn có thể khống chế các âm hồn đang lang thang trên dương gian. Họ sẽ không thể dụ dỗ những con ma mới chết hay tập hợp với nhau.
Thứ hai là do quan điểm nhân văn. Xét trên phương diện khoa học, con người thường cảm thấy mệt mỏi nhất là vào buổi trưa và khỏe mạnh nhất là vào buổi sáng. Do đó, nếu phạm nhân bị chém đầu vào buổi sáng khi đang tỉnh táo thì họ sẽ cảm nhận rất rõ sự đau đớn đó.
Vì vậy, người xưa mới quyết định chọn giờ Ngọ ba khắc để hành hình. Như vậy, tử tù sẽ cảm thấy mệt mỏi không còn tập trung vào việc mình sắp bị tử hình, sự đau đớn sẽ nhanh chóng qua đi. Đồng thời, những người chứng kiến thời khắc này sẽ dễ bị xao nhãng hơn.
Tuy nhiên, theo nhiều tiểu thuyết của Trung Quốc khi nhắc tới chuyện hành hình phạm nhân thường đặt trong bối cảnh mùa thu hoặc mùa đông. Thực chất, xử tử kẻ tù tội trong những tiết trời này xuất phát từ quan niệm “xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàng” của người xưa. Trong bốn mùa của năm, tiết thu và đông thường lạnh hiu hắt, cảnh vật buồn bã âu sầu, phù hợp với “sát lệnh” của đất trời. Vì vậy, kẻ tử tội bị hành hình vào những mùa này cũng là điều dễ hiểu.
Hình luật triều Đường, Tống ở Trung Quốc quy định: Mỗi năm từ tiết lập xuân đến thu phân, các tháng giêng, tháng 5, tháng 9; các ngày đại tế, trai giới, ngày rơi vào 24 tiết khí, ngày mùng một, rằm, thượng huyền, hạ huyền, những ngày "cấm sát" trong tháng (mùng một, mùng tám, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30) không được thi hành tử hình.
Ngoài ra, quy định khi gặp thời tiết "mưa chưa tạnh, Mặt trời chưa mọc" cũng không được hành hình. Theo quy định này, triều Đường, Tống mỗi năm có chưa đến 80 ngày thi hành án tử hình.
Dưới thời Minh, Thanh, hình pháp cũng quy định thời gian hành hình như triều Đường, Tống nhưng không quy định giờ giấc cụ thể.
Sách Tỉnh danh hoa chép rằng: "Bây giờ là cuối thu đầu đông. Phàm trong lao ngục của các phủ, châu, huyện, những trọng phạm thuộc vào dạng 'thập ác bất xá' đều đưa ra xử quyết. Hôm ấy, tri huyện Song Lưu là Cao Tiệp, tiếp được thánh chỉ, bèn cho đưa mấy phạm nhân có tên ra ngã tư phố hành hình vào lúc canh năm".
Như vậy, thời điểm hành quyết không phải là giữa trưa.