Ai thuộc diện được hỗ trợ 400.000 đồng tiền mặt dịp Tết Nguyên đán 2026?

12:08, Thứ tư 31/12/2025

( PHUNUTODAY ) - Ngày 28/12/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết 418/NQ-CP về việc tặng quà của Đảng và Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán 2026.

Nghị quyết số 418/NQ-CP năm 2025 chính thức có hiệu lực kể từ ngày 28/12/2025.

Căn cứ khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 418/NQ-CP năm 2025, Chính phủ quy định mức quà tặng 400.000 đồng/người của Đảng và Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 dành cho một số nhóm đối tượng cụ thể.

Thứ nhất, nhóm người có công với cách mạng theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2020. Các đối tượng này được xác định theo khoản 1 Điều 3 của Pháp lệnh, bao gồm:

Người tham gia hoạt động cách mạng trước ngày 1/1/1945; Người hoạt động cách mạng trong giai đoạn từ ngày 1/1/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; Liệt sĩ; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến; Thương binh, kể cả thương binh loại B được công nhận trước ngày 31/12/1993 và người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; Người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; Người hoạt động cách mạng, kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc hoặc làm nghĩa vụ quốc tế bị địch bắt tù, đày; Người tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp đỡ cách mạng.

Căn cứ khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 418/NQ-CP năm 2025, Chính phủ quy định mức quà tặng 400.000 đồng/người của Đảng và Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 dành cho một số nhóm đối tượng cụ thể.
Căn cứ khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 418/NQ-CP năm 2025, Chính phủ quy định mức quà tặng 400.000 đồng/người của Đảng và Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 dành cho một số nhóm đối tượng cụ thể.

Thứ hai, nhóm đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định tại Nghị định 20/2021/NĐ-CP của Chính phủ.

Cụ thể, theo Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 176/2025/NĐ-CP), các đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng bao gồm:

Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng, thuộc một trong các trường hợp như: bị bỏ rơi chưa được nhận làm con nuôi; mồ côi cả cha và mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại bị tuyên bố mất tích; mồ côi cha hoặc mẹ trong khi người còn lại đang được chăm sóc tại cơ sở trợ giúp xã hội; mồ côi cha hoặc mẹ khi người còn lại đang chấp hành án phạt tù hoặc biện pháp xử lý hành chính bắt buộc; cả cha và mẹ bị tuyên bố mất tích; cả cha và mẹ đang được nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội; cả cha và mẹ đang chấp hành án phạt tù hoặc biện pháp xử lý hành chính bắt buộc; cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích và người còn lại đang được chăm sóc tại cơ sở trợ giúp xã hội; cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích và người còn lại đang chấp hành án phạt tù hoặc biện pháp xử lý hành chính bắt buộc; cha hoặc mẹ đang được chăm sóc tại cơ sở trợ giúp xã hội trong khi người còn lại đang chấp hành án phạt tù hoặc biện pháp xử lý hành chính bắt buộc.

Ngoài ra, trẻ em thuộc các nhóm nêu trên khi đủ 16 tuổi nhưng vẫn đang theo học văn hóa, học nghề, trung cấp, cao đẳng hoặc đại học (văn bằng thứ nhất) thì tiếp tục được hưởng trợ cấp xã hội cho đến khi kết thúc khóa học, nhưng không quá 22 tuổi.

Bên cạnh đó, trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo cũng nằm trong diện được hưởng chính sách trợ giúp xã hội theo quy định hiện hành.

Ngoài các nhóm đã nêu, đối tượng hưởng chính sách còn bao gồm người thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo đang trong tình trạng chưa kết hôn; hoặc đã kết hôn nhưng vợ hoặc chồng đã qua đời hay bị tuyên bố mất tích theo quy định pháp luật, đồng thời đang trực tiếp nuôi con dưới 16 tuổi, hoặc nuôi con từ đủ 16 đến 22 tuổi đang theo học văn hóa, học nghề, trung cấp, cao đẳng hoặc đại học (văn bằng thứ nhất), theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP.

Chính sách cũng áp dụng đối với người khuyết tật nặng và người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.
Chính sách cũng áp dụng đối với người khuyết tật nặng và người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.

Bên cạnh đó, người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp sau cũng nằm trong diện được hưởng chính sách: người cao tuổi thuộc hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng; hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng. Ngoài ra, người cao tuổi thuộc hộ nghèo, không có người phụng dưỡng, không đủ điều kiện sinh sống tại cộng đồng, đủ tiêu chuẩn tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội nhưng có người nhận chăm sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng cũng thuộc diện áp dụng.

Chính sách cũng áp dụng đối với người khuyết tật nặng và người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.

Đối với trẻ em, nhóm trẻ dưới 3 tuổi thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo, không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1, 3 và 6 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP, đang sinh sống tại các xã, thôn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn cũng nằm trong diện được hưởng.

Ngoài ra, người nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo, không có nguồn thu nhập ổn định hằng tháng như tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc trợ cấp xã hội thường xuyên cũng thuộc nhóm đối tượng áp dụng chính sách.

Đối với nhóm đối tượng hưu trí xã hội, việc xác định được thực hiện theo quy định tại Nghị định 176/2025/NĐ-CP. Theo Điều 2 Nghị định này, công dân Việt Nam được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội khi đáp ứng các điều kiện gồm: đủ từ 75 tuổi trở lên; không đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, hoặc đang hưởng nhưng mức hưởng thấp hơn mức trợ cấp hưu trí xã hội theo quy định; đồng thời có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp.

Ngoài ra, công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo, nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên, cũng thuộc diện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.

Cần lưu ý rằng, trong trường hợp một người đồng thời đủ điều kiện thuộc từ hai nhóm đối tượng trở lên thì chỉ được nhận một suất quà theo quy định.

Theo Nghị quyết 418/NQ-CP năm 2025, việc tặng quà phải được hoàn tất chậm nhất vào ngày 31/12/2025. Riêng chính sách tặng tiền Tết Nguyên đán 2026 đối với người có công với cách mạng phải được thực hiện xong trước ngày 31/01/2026.

chia sẻ bài viết
Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn copy link
Tác giả: Bảo Ninh