(Phunutoday) - Sau lưng Tưởng Giới Thạch luôn có một nhân vật bí mật gắn bó như hình với bóng. Nhân vật này chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Tưởng, xây dựng và thống lĩnh toàn bộ hệ thống mật vụ, tình báo của Quốc dân đảng, thiết kế và thực hiện các phi vụ đặc biệt như ám sát, bắt cóc, khủng bố…các đối tượng khác đảng phái cũng như thanh trừng nội bộ. Người đó chính là Đới Lạp (1896-1946), từng là Phó Cục trưởng Cục Điều tra Ủy ban quân sự Quốc dân đảng, kẻ được mệnh danh là “Cái thế thái bảo Trung Hoa”.
PhunuToday sẽ lần lượt tái hiện một số vụ việc tiêu biểu để làm rõ hơn chân dung của tay “đệ nhất sát thủ” họ Đới này.
Tháng 8/1927, Tưởng Giới Thạch đại bại khi chỉ huy quân Bắc phạt Từ Châu. Buộc phải rút quân về Nam Kinh, Tưởng đem quân đoàn trưởng số 10 kiêm tổng chỉ huy tiền tuyến là Vương Thiên Bồi làm vật tế, không qua thẩm tra, không tuyên bố tội danh mà hành quyết ngay. Sự kiện này lập tức gây chấn động nội bộ Quốc Dân đảng. Vương Thiên Bồi là tướng lĩnh Kiềm quân, đồng hương với Hà Ứng Khâm là quân đoàn trưởng số 1. Các tướng Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy lo sợ trở thành Vương Thiên Bồi thứ hai, bèn liên kết với nhau “bức cung” Tưởng. Họ đem quân đội Quế hệ bao vây Nam Kinh, buộc Tưởng Giới Thạch ngày 12/8 phải từ chức Tổng tư lệnh, rời Ninh Ba về quê cũ ở Kê Khẩu, Phụng Hoá.
Ngày 28/9, Tưởng Giới Thạch từ Thượng Hải sang Nhật Bản vừa “tỵ nạn”vừa ra mắt Tống lão phu nhân để tổ chức hôn lễ với Tống Mỹ Linh, để mặc cho các phe phái đấu đá nhau. Tháng 1/1928, Tưởng trở về Trung Quốc dùng thủ đoạn vừa đánh vừa kéo, hất chân được 2 đối thủ đáng gờm nhất là Uông Tinh Vệ và Hồ Hán Dân, trở thành Bộ trưởng Tổ chức Trung ương Quốc dân đảng, Chủ tịch uỷ ban quân sự trung ương, Tổng Tư lệnh quân cách mạng quốc dân, thâu tóm 3 đại quyền đảng – chính - quân trong tay. Sau sự kiện bị “bức cung”, Tưởng rút ra bài học là phải hết sức chú trọng công tác tình báo để kịp thời “tiên phát chế nhân” - ra tay khống chế đối thủ trước. Do đó Tưởng quyết định thành lập lại tổ chức tình báo với mạng lưới đặc vụ tinh nhuệ. Nhiệm vụ này được ủy thác cho tay sát thủ số 1 tuyệt đối trung thành Đới Lạp.
Đới Lạp tên thật là Đới Xuân Phong, sinh năm 1897 tại Giang Sơn, Triết Giang, từng học trường quân sự Hoàng Phố do Tưởng Giới Thạch làm hiệu trưởng. Nhờ được Hồ Tịnh An tiến cử, Đới Lạp được tham gia hoạt động trong Tổ điều tra bí mật Thượng Hải, tiền thân của Đặc vụ quân thống Quốc dân đảng. Đới Lạp tỏ ra rất có khả năng trong trinh sát, ám sát, mua chuộc…dần dần trở thành “ngọn dao găm bên người Tưởng Giới Thạch”. Đới Lạp từng kết nghĩa anh em với trùm sát thủ Vương Á Tiều, bố già Đỗ Nguyệt Thăng, tướng quân “hùm xám đông bắc” Trương Học Lương. Nhưng khi ra tay họ Đới rất tàn độc, chỉ biết theo lệnh Tưởng Giới Thạch. Những vụ án nổi tiếng sau này như ám sát “trùm sát thủ” Vương Á Tiều, Phu nhân Tống Khánh Linh, “Lỗ Trung Vương” Hàn Phục Cừ, quân trưởng Quân đoàn 2 của Đảng Cộng sản Cát Hồng Xương, chủ nhiệm tờ “Thân báo” Sử Lượng Tài…đều có bàn tay của Đới Lạp.
Thích khách họ Vương
Với họ Tưởng, cái “gai trong mắt” cần phải cần phải nhổ đầu tiên là Vương Á Tiều, trùm đảng Phủ Đầu (búa) ở Thượng Hải, được biết đến như một thích khách lừng danh thời Dân quốc. Vương là một “đặc cấp sát thủ”, chuyên hành nghề ám sát bất kể đảng phái.
Vương Á Tiều tự là Cửu Quang, tên trong gia phổ là Ngọc Thanh, biệt hiệu là Kình Vũ, sinh năm 1887 tại Ma Điếm, Hợp Phì, tỉnh An Huy, đồng hương với đại thần triều Thanh là Lý Hồng Chương. Vương là con nhà nghèo, cha là Vương Âm Đường làm nghề nông kiêm y thuật. Từ nhỏ, Vương Á Tiều đã có tiếng dũng mãnh, hào sảng, thường can thiệp chuyện bất bình. Năm Tuyên Thống thứ 3, cách mạng Tân Hợi (1911) nổ ra, thấy tình thế hỗn loạn Vương Á Tiều bèn vận động người trong làng tổ chức đơn vị vũ trang, mưu đồ chiếm đoạt gia sản của Lý Hồng Chương. Âm mưu này bị Tổng quản của Lý là Lưu Đông Sơn phát hiện, báo lên Ủy ban quân chính Lư Châu. Kết quả là một số đồng bọn bị xử tử còn Vương Á Tiều nhanh chân chạy lên Nam Kinh. Tại đây, Vương tham gia vào tổ chức đảng Xã hội của Giang Kháng Hổ, sang năm 1912 thì quay về An Huy hoạt động. Lúc này tướng quân phiệt Nghê Tự Xung cai quản An Huy, xem đảng Xã hội là loạn đảng nên ra lệnh truy nã, Vương Á Tiều lại chạy đến Thượng Hải.
Vốn giỏi giao tế, tại bến Thượng Hải, Vương đã thiết lập quan hệ thân thiết với đủ các hạng từ chính khách, quân nhân, thương nhân đến xã hội đen, lưu manh. Đặc biệt, y đã gặp gỡ và kết nghĩa huynh đệ với ông trùm Thanh bang Đỗ Nguyệt Thăng. Vương còn cùng một số bạn đồng hương như Đường Ấu Văn, Trịnh Ích Yêm tham gia vào tổ chức Chủ nghĩa vô chính phủ, và chính những luận lý của chủ nghĩa này đã gắn chặt suốt cuộc đời hoạt động ám sát của Vương Á Tiều sau đó.
Năm 1918, Vương Á Tiều đến Quảng Châu tham gia vận động “hộ pháp” (bảo vệ pháp quyền) của Tôn Trung Sơn. Năm 1921, cuộc vận động thất bại, Vương Á Tiều rời Quảng Đông tham gia vào tổ chức vũ trang địa phương của Hồ Bão Nhất phát động ở một dải Tô Bắc, hỗ trợ Hàn Khôi là người của Đảng Cộng sản chống lại chính phủ quân phiệt của Lý Thuần ở Giang Tô. Việc bất thành, Hàn Khôi bị nạn ở Nam Kinh còn Vương Á Tiều trốn về An Huy, sau đó lên lại Thượng Hải.
Mùa đông năm 1922, Thầm Tiểu Sầm, Vương Quang Huy lập Tổng hội Lao động Hồ Nam tại Thượng Hải. Vương Á Tiều cũng đi vận động đồng hương tổ chức thành lập Tổng hội Lao động An Huy.
Trở thành sát thủ chuyên nghiệp
Lúc bấy giờ ở Thượng Hải thịnh hành hình thức “bái tiên sinh” đối với người đứng đầu tổ chức. Các hội viên xem Vương Á Tiều là thầy, nhiều người còn gọi Vương là “Mạnh Thường Quân trên Bến Thượng Hải”. Dần dần, Tổng hội lao động An Huy trở thành một tổ chức bang hội dưới sự thống lĩnh của một mình Vương Á Tiều. Tiếp đó, Vương Á Tiều bành trướng thế lực, chiếm đoạt luôn Hội quán An Huy, lập ra “Phủ đầu bang” (đảng Đầu búa) chuyên hoạt động ám sát, bắt cóc thuê…cho các đảng phái để lấy tiền. Tiếng tăm bắt đầu dậy lên ở Bến Thượng Hải.
Năm 1924, hai tướng chỉ huy quân sự 2 tỉnh Triết Giang, Giang Tô là Lư Vĩnh Tường và Tề Tiếp Nguyên mâu thuẫn kịch liệt. Lư Vĩnh Tường muốn trừ khử tâm phúc của Tề Tiếp Nguyên là Từ Quốc Lương, đang làm chỉ huy trưởng Sở cảnh sát Tùng Lư, bèn sai con là Lư Tiểu Hạ đến Thượng Hải, thông qua Lý Thiếu Xuyên, Quan Vân Nông diện kiến Vương Á Tiều rồi đưa đến Hàng Châu gặp Lư Vĩnh Tường đàm phán. Vương Á Tiều đồng ý hành thích Từ Quốc Lương, nhận 20.000 đồng trở về Thượng Hải, lên kế hoạch cho Trịnh Ích Yêm và Chu Hỷ Nguyên ra tay. Cuộc ám sát thành công, Vương Á Tiều được Lư Vĩnh Tường trọng dụng, phong làm Tư lệnh quân đoàn du kích Triết Giang, phát cho hơn 400 khẩu súng bộ binh, được quyền mộ binh huấn luyện ở Hồ Châu.
Mùa hè năm 1925, chiến sự giữa quân đội 2 tỉnh Triết Giang và Giang Tô bùng nổ, Lư Vĩnh Tường chiến bại, Vương Á Tiều chạy trốn về Lư Châu.
Năm 1927, hai đảng Quốc dân và Cộng sản hợp tác lần thứ nhất, tiến hành “Bắc phạt”, Vương Á Tiều cùng Lưu Tinh Ngô đưa hơn 1000 quân từ An Huy tham gia, tấn công Hợp Phì, An Khánh. Tướng quân phiệt An Huy lúc này là Trần Điều Nguyên cho quân vây Vương Á Tiều ở hồ Hồng Trạch, hai bên giằng co suốt mấy tháng. Mùa xuân năm 1928, Vương dẫn 10 thuộc hạ phá vòng vây chạy về Nam Kinh. Sau sự kiện “12/4” (Quốc Dân đảng mượn tay Thanh Bang do Đỗ Nguyệt Thăng cầm đầu thảm sát công nhân Thượng Hải), Tưởng Giới Thạch tuyên bố thành lập chính phủ Quốc dân ở Nam Kinh. Tại lễ “định đô” long trọng tổ chức tại công viên Trung Sơn, Vương Á Tiều lấy danh nghĩa là đại diện cho giới công nhân phát biểu, có nhiều lời chỉ trích Tưởng Giới Thạch. Nổi giận, Tưởng mật lệnh cho chỉ huy trưởng cảnh sát TP Nam Kinh là Ôn Kiếm Cương truy bắt Vương Á Tiều. Vương nhanh chân thoát được, trốn về Thượng Hải.
Năm 1929, chính phủ Quốc dân đề xuất quốc hữu hóa ngành tàu biển, Triệu Thiết Kiều, ủy viên Đồng minh hội được cử làm Tổng biện (tổng giám sát và quản lý) Chiêu Thương Cục - tập đoàn tàu biển lớn nhất bấy giờ. Chủ tịch hội đồng quản trị Chiêu Thương Cục là Lý Quốc Kiệt thấy mất dần quyền lực, căm hận trong lòng, nhờ em là Lý Thiếu Xuyên thỉnh Vương Á Tiều giết Triệu Thiết Kiều với giá 15.000 đồng.
Khoảng 8 giờ sáng ngày 24/7/1930, Triệu Thiết Kiều vừa xuống xe thì bị tay chân Vương Á Tiều bắn chết. Để đền ơn, Lý Quốc Kiệt giao hết toàn bộ lợi nhuận của đại công ty Giang An cho họ Vương.
Ám sát Tưởng Giới Thạch
Ngày 28/2/1931, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh giam lỏng lãnh đạo “phái Tây Nam” Hồ Hán Dân tại Đãng Sơn, Nam Kinh. “Phái Tây Nam” nổi giận, Lâm Hoán Đình là Hoàng Cư Tố cho người đem số tiền khổng lồ 260.000 đồng đến Thượng Hải gặp Vương Á Tiều nhờ “giết Tưởng cứu Hồ”. Vương nhận lời, tổ chức điều nghiên và lên kế hoạch chặt chẽ cho Hoa Khắc Chi và Trịnh Bão Chân tổ chức 2 tổ ám sát đi Nam Kinh và Lư Sơn.
Tại Lư Sơn, sát thủ Trần Thành may gặp Tưởng Giới Thạch trong đường núi bèn móc súng bắn ngay. Khoảng cách xa, Trần thành lại quá căng thẳng nên đạn chỉ bay sượt người Tưởng. Thành bị vệ sĩ của Tưởng bắn chết. Tại Nam Kinh, 4 sát thủ đã có cơ hội khi Tưởng diễn thuyết, cải trang thành nhà báo và sinh viên trà trộn vào hội trường. Nhưng ngay thời điểm “ngàn cân treo sợi tóc” thì Vương Á Anh, vừa là tổng liên lạc vừa là vợ Vương Á Tiều, lại run sợ, phát ám hiệu “tạm hoãn hành động”, khiến vụ ám sát thất bại.
Lúc này, Viện trưởng Viện Hành chính là Tôn Khoa-con trai của Tôn Trung Sơn, bị Tưởng Giới Thạch và Tống Tử Văn- bộ trưởng Bộ tài chính, em trai Tống Khánh Linh, bức phải từ chức. Tôn Khoa phái tay chân tâm phúc là Mã Siêu Tuấn đem nhiều vàng bạc bí mật đến gặp Vương Á Tiều nhờ “tính kế”. Vương nhận lời.
Tối ngày 23/7/1931, Vương Á Tiều theo phương châm “muốn hạ Tưởng phải khử Tống trước, làm rối loạn tổ chức kinh tế”, đích thân dẫn 18 sát thủ chia làm 2 cánh đến trạm Bắc Thượng Hải hành động. Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, nhóm Tống Tử Văn vừa xuống xe thì bị bọn sát thủ xả súng ngay. Nhưng may mắn, sát thủ bắn nhầm thư ký cơ yếu Đường Du Lư, Tống Tử Văn thoát chết trong gang tấc.
Ngày 29/4/1932, quân Nhật tổ chức ăn mừng lễ Thiên trường (sinh nhật Thiên Hoàng) tại công viên Hồng Khẩu, Thượng Hải. Vương Á Tiều nhận mật lệnh của Viện trưởng hành chính kiêm Tư lệnh cảnh sát dự bị vùng Kinh - Lư là Trần Minh Khu, cùng nhóm đệ tử của mình dùng mìn hẹn giờ đặc chế giết chết đại tướng Bạch Xuyên cùng một số sĩ quan cao cấp khác. Cả Nhật Bản bàng hoàng, dư luận thế giới chấn động. Tướng Bạch Xuyên bị giết làm Tưởng Giới Thạch đau đầu, lập tức ra lệnh cho Cơ quan đặc vụ của Đới Lạp điều tra kẻ chủ mưu vụ án “29/4”.
Tiếp đó, vào ngày 10/11, Vương Á Tiều lại lên kế hoạch ám sát Reaton, Trưởng đoàn điều tra của Liên minh quốc tế cử đến Thượng Hải. Ông này phát biểu rằng vùng đông bắc Trung Quốc là nước Mãn Châu, có thể tự do thông thương với Nhật Bản chứ không phụ thuộc Trung Quốc. Vương Á Tiều cùng các nhân sĩ Lý Thứ Sơn, Ngô Biên, Hứa Thế Anh…rất tức giận. Nhưng nhóm phụ trách hành thích gồm Đường Minh, Long Lâm không may bị bắt, bị Đới Lạp trực tiếp khai thác. Không chịu nổi đòn tra, cả hai khai ra các vụ ám sát trước đó cũng do Vương Á Tiều chủ mưu.
Khi Đới Lạp báo cáo xác nhận chính Vương Á Tiều - người anh kết nghĩa với mình – chính là kẻ chủ mưu vụ 29/4, Tưởng quyết định mua chuộc Vương Á Tiều. Được giao nhiệm vụ liên lạc, Đới Lạp bèn phái đặc vụ Hồ Bão Nhất, vốn là đệ tử của mình từng có thời gian cùng đi theo Vương Á Tiều, đem 40 ngàn đồng đến Thượng Hải mua chuộc. Vương Á Tiều cự tuyệt. Tưởng Giới Thạch lại hạ lệnh cho Hồ Tông Nam viết thư cho Vương Á Tiều, mời ra nhận chức phó chủ tịch tỉnh An Huy. Vương cũng cự tuyệt. Hai chiêu vô hiệu, Tưởng cho rằng Vương Á Tiều không muốn chịu khuất dưới hai đàn em năm xưa, bèn phái Dương Hổ là người đồng hương, từng cùng Á Tiều tham gia cách mạng Tân Hợi, hiện đang giữ chức tư lệnh cảnh sát dự bị Tùng-Lư, đến diện kiến Á Tiều, đưa ra cái giá là chức Trung tướng lục quân, nhưng kết quả vẫn là số không.
Nghe Dương Hổ về báo tình hình Vương Á Tiều, tuy ngoài miệng nói “hay lắm! hay lắm” nhưng trong lòngTưởng Giới Thạch đã hạ quyết tâm: Người này ta không dùng được thì phải quyết diệt đi để trừ hậu hoạn.
Đối với Vương Á Tiều, lúc đầu Đới Lạp cũng có chút trắc ẩn. Khi thành lập phòng đặc vụ, Đới Lạp từng tiến cử Vương với Tưởng, nhưng Tưởng cho rằng “người này tư tưởng tả khuynh, ta không sử dụng được”. Đới Lạp thấy vậy nên không nhắc đến nữa. Hiện tại, Vương Á Tiều đã trở thành mối lo lớn của Tưởng, Đới Lạp quyết định hy sinh tình riêng cho chủ. Thực lực và thủ đoạn của Vương Á Tiều thì Đới Lạp đã quá rõ: bắt được Vương tuyệt đối không phaỉ chuyện dễ. Sử dụng một số lượng lớn đặc vụ, giăng dày ở Thượng Hải, Đới dốc toàn lực nhằm bắt hoặc giết cho được Vương Á Tiều. Nát óc, Đới Lạp lập ra 3 phương án: Một là vây bắt, Đới Lạp giao cho quân cảnh Thượng Hải phong toả nghiêm mật đường bộ, đường thuỷ, đường không để phòng Á Tiều trốn đi. Hai là giữ bắt, Đới Lạp biết rõ Á Tiều có tài xuất quỷ nhập thần, bắt ngay là chuyện không tưởng, phải thả dây câu dài để bắt cá lớn, làm cho hắn mệt mỏi lơ là rồi bất ngờ tấn công. Ba là dụ bắt, Đới Lạp được Tưởng đồng ý treo giải thưởng 1 triệu đồng cho người nào bắt được Vương Á Tiều, ai biết chỗ dẫn đi bắt được thưởng 100.000 đồng.
Cuối cùng, Đới Lạp lập một biệt đội phản ứng nhanh, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Ám sát Uông Tinh Vệ để trả đũa
Đới Lạp và Vướng Á Tiều xưa là huynh đệ, nay ra cừu thù. Thượng Hải tuy lớn nhưng cũng khó có chỗ cho Vương Á Tiều dung thân. Lúc này Vương mới nhận ra sức mạnh thực sự của Đới Lạp.
Sau nhiều ngày theo dõi, một đêm khuya đặc vụ phát hiện Vương Á Tiều đi xe hơi đen vào một toà nhà. Lập tức mấy trăm quân cảnh phối hợp cảnh sát tô giới Pháp ở Thượng Hải cùng kéo đến vây chặt nhà rồi phá cửa xông vào. Căn phòng còn ấm hơi người, nhưng lùng sục khắp toà nhà cũng chẳng thấy bóng dáng Vương Á Tiều đâu. Thì ra Vương phát hiện những dấu hiệu khác thường đã nhảy từ lan can sân thượng xuống, nương theo một sợi dây thừng thoát xuống đất, men theo bóng tối của toà nhà trốn ra khu nghĩa trang gần đó.
Mùa hè năm 1933, đặc vụ của Đới Lạp dò ra được chỗ ở của Vương Á Anh người vợ thứ hai của Vương Á Tiều tại Thượng Hải. Đới ra lệnh không được làm kinh động, âm thầm bao vây chờ Vương Á Tiều đến nộp mạng.
Vương Á Anh cũng là tay sát thủ đáng gờm. Rạng sáng hôm ấy thấy Á Tiều an toàn trở về, vùa mừng vừa lo, chưa kịp hỏi han đã vạch rèm quan sát động tĩnh. Chỉ nhìn qua Á Anh đã kêu lên “không xong rồi”. Á Tiều nhìn ra quả nhiên thấy đặc vụ đa phong toả khắp phố. Trong lúc nguy cấp, Á Tiều nhìn thấy giỏ rau ở góc phòng, bèn mặc quần áo của Á Anh, buộc khăn lên trùm đầu, cạo sạch râu, hoá trang thành phụ nữ đi theo mấy bà đi mua thức ăn buổi sáng, cúi đầu đi qua các đặc vụ rất an nhiên. Vừa qua ngõ hẻm đã thấy hàng chục xe cảnh sát ập vào khu nhà khám xét, Á Tiều một lần nữa phá lưới mà đi.
Bị Đới Lạp bức bách phải trốn Hồng Kông, Vương Á Tiều rất căm uất. Mùa thu năm 1933, các tướng Lý Tế Thâm, Thái Diên Hài thực hiện “Sự biến Phúc Kiến”, lập chính phủ riêng, đối kháng trực tiếp với Tưởng Giới Thạch, Vương Á Tiều đến Phúc Châu đầu quân. Sự biến thất bại, Vương lại cùng nhóm Hoa Khắc Chi, Tôn Phụng Minh lên kế hoạch ám sát Tưởng Giới Thạch. Nhóm này lập ra hãng thông tấn Thần Quang làm bình phong bí mật cho kế hoạch lâu dài.
Ngày 1/11/1935, Đại hội Trung ương Quốc dân đảng lần 4 được tổ chức tại lễ đường đảng bộ trung ương tại đường Hồ Nam, Nam Kinh, báo chí tham dự khá đông. Sau khi khai mạc, dự định 111 người là Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương cùng xếp hàng trước lễ đường chụp ảnh lưu niệm. Nhưng chỉ có 110 người, vắng mặt “uỷ viên số 1” Tưởng Giới Thạch. “Uỷ viên số 2” là Viện trưởng Hành chính Uông Tinh Vệ rất vui vì các phe có thực lực đều đến tham dự đại hội, Uông lại được cử chủ trì lễ khai mạc, có cơ hội để thể hiện mình. Thấy vắng Tưởng, Uông tươi cười nói: “Không cần chờ Tưởng tiên sinh nữa, chúng ta cùng chụp ảnh lưu niệm”
“Đoàng”, một phát súng nổ vang, Uông Tinh Vệ gục xuống, máu tuôn như suối. Sát thủ Tôn Phụng Minh của phe Vương Á Tiều dưới vỏ bọc phóng viên hãng thông tấn Thần Quang vừa bắn xong, vung súng bước lên 2 bước hét lớn: “Giết chết thằng giặc bán nước này”. Các uỷ viên Quốc dân đảng xô nhau chạy tứ tán. Chỉ có thiếu soái Trương Học Lương (con trai tướng quân phiệt Trương Tác Lâm) là người dũng lược, tung ngay một đòn đá rất chính xác vào hạ bộ Tôn Phụng Minh khiến hắn quay 2 vòng rồi ngã gục. Đặc vụ xô đến, nổ súng bắn Minh chết ngay.
Tưởng Giới Thạch nghe động, từ trên lầu đi xuống, ôm Uông Tinh Vệ khóc và quát vệ binh đưa Uông đến bệnh viện”. Nhưng đã muộn…
Nội bộ Quốc dân đảng rối tung lên. Phe cải tổ cùng Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy ở Quảng Tây liên tục chất vấn, buộc tội Tưởng tổ chức sát hại Uông. Tưởng Giới Thạch đuối sức, bèn gọi Đới Lạp lên mắng chửi, hạn 3 ngày phải tìm ra thủ phạm phá án, nếu không sẽ trừng trị.
Cùng đường
Đới Lạp điều tra từng chi tiết nhỏ, sau đó chia quân làm 3 đường ra tay triệt hạ Hãng thông tấn Thần Quang. Một tổ đến Trấn Giang bắt Trưởng ban thời Hạ Ba Quang nhưng không gặp bèn bắt mẹ và con dâu Hạ Ba Quang. Tổ thứ hai truy bắt Chủ nhiệm hãng Hoa Khắc Chi, cũng không thành. Tổ thứ ba đến Nam Kinh, Thượng Hải bí mật bắt nguội vợ, em vợ của Hạ Bá Quang, bắt vợ Tôn Phụng Minh là Thôi Chính Dao và phóng viên Cốc Tử Phong. Đới Lạp xua tay chân lùng sục ngày đêm không nghỉ nhưng không có kết quả, bèn sử dụng độc kế: bắt mẹ của Hạ Bá Quang làm mồi nhử. Hạ Bá Quang vốn nặng chữ hiếu nên đành ra đầu thú.
Bị tra tấn tàn khốc không chịu nổi, Hạ Bá Quang khai mục đích chính của cuộc ám sát là giết Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ chỉ là mục tiêu dự bị. Hai kẻ chủ mưu là Vương Á Tiều và Hoa Khắc Chi thoát lưới, nhưng Đới Lạp đã bắt được hàng chục tội “cá lớn”, trong đó có cả phần tử của phe cải tổ khiến cho các thủ lĩnh của phe này như Trần Bích Quân, Trần Công Bác phải im hơi lặng tiếng, ngừng công kích. Tưởng Giới Thạch rất hài lòng. Đới Lạp được khen ngợi.
Tháng 3/1936, Đới Lạp chỉ huy 20 đặc vụ đến Hồng Kông quyết bắt cho được Vương Á Tiều. Trinh sát của Vương Á Tiều phát hiện. Vương vốn rất thân với Thống đốc Hồng Kông là Cát Hồng Lượng, có quan hệ mật thiết với cảnh sát nơi đây. Đới Lạp vừa đặt chân vào Hồng Kông đã bị cảnh sát bắt giữ vì tội mang vũ khí không khai báo khi nhập cảnh. TưởngGiới Thạch vội chỉ đạo Bộ ngoaị giao thương lượng với chính phủ Anh, Đới Lạp mới được thả ra sau 3 ngày bị giam giữ. Uất Vương Á Tiều tột độ, Đới lại tung tay chân truy bắt.
Một hôm Vương Á Tiều cùng các huynh đệ đến thương xá Điều Bố ở đường Cannes thì bị đặc vụ Tưởng bao vây. Vương Á Tiều, Trịnh Bão Chân, Dư Á Nông nhanh chân nhảy qua cửa sổ thoát ra ngoài. Dư Lập Quải cùng một tay súng ở lại đóng cửa tử thủ cho các đồng đảng trốn thoát, bị bắt sốngđưa về Thượng Hải.
Lại một lần nưã Vương Á Tiều thoát “thiên la địa võng” của Đới Lạp, rời Hồng Kông về Quảng Tây. Từ tháng 2 đến tháng 4/1936, Á Tiều 2 lần lên Nam Ninh du thuyết các tướng Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy làm phản nhưng đều thất bại, bị đối xử lạnh nhạt. Vương Á Tiều đành về nương nhờ Lý Tế Thâm, lòng vẫn o ngại một khi quân Quảng Tây hợp nhất với quân Nam Kinh của Tưởng thì mình sẽ trở thành vật hiến tế.
…Một đêm Vương Á Tiều thở dài buông ly rượu trong tay, ngửa mặt nhìn trăng, cảm thán: “Trăng sáng sao thưa, quạ bay về nam, lượn quanh ba vòng, không cành để đậu”. Năm xưa Tào Tháo nắm cả trăm vạn binh hùng, uy chấn Trung nguyên mà trên sông Xích Bích còn cảm thấy cô độc như thế, huống chi bọn ta ngày nay? Chi bằng về Diên An, đầu quân theo Đảng cộng sản”. Lý Tế Thâm kinh ngạc gắng thuyết phục Vương thận trọng.
Vương đáp: “Ta đã suy nghĩ kỹ rồi, Trung Quốc ngày nay các lực lượng chính trị đều hợp nhất với lão Tưởng, chỉ riêng có Đảng cộng sản là không mà thôi. Ta đã không còn đường để đi. Tế Thâm, anh có thể liên hệ giúp ta?” “ Những nhân sĩ cấp lãnh đạo của Đảng cộng sản tôi có quen biết như Chu An Lai, Chu Đức, nhưng Cửu ca, anh phải cân nhắc thật kỹ!”. Vương Á Tiều khẳng khái nói: “Nếu Trung Cộng không chịu tiếp nhận, ta se đơn độc huyết chiến, mở một đường máu mà đi”
Kỳ II: Mưu sát Tống Khánh Linh và Lỗ Trung Vương
Thiên Tường
PhunuToday sẽ lần lượt tái hiện một số vụ việc tiêu biểu để làm rõ hơn chân dung của tay “đệ nhất sát thủ” họ Đới này.
Tháng 8/1927, Tưởng Giới Thạch đại bại khi chỉ huy quân Bắc phạt Từ Châu. Buộc phải rút quân về Nam Kinh, Tưởng đem quân đoàn trưởng số 10 kiêm tổng chỉ huy tiền tuyến là Vương Thiên Bồi làm vật tế, không qua thẩm tra, không tuyên bố tội danh mà hành quyết ngay. Sự kiện này lập tức gây chấn động nội bộ Quốc Dân đảng. Vương Thiên Bồi là tướng lĩnh Kiềm quân, đồng hương với Hà Ứng Khâm là quân đoàn trưởng số 1. Các tướng Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy lo sợ trở thành Vương Thiên Bồi thứ hai, bèn liên kết với nhau “bức cung” Tưởng. Họ đem quân đội Quế hệ bao vây Nam Kinh, buộc Tưởng Giới Thạch ngày 12/8 phải từ chức Tổng tư lệnh, rời Ninh Ba về quê cũ ở Kê Khẩu, Phụng Hoá.
![]() |
Thượng Hải đầu thế kỷ 20 |
Ngày 28/9, Tưởng Giới Thạch từ Thượng Hải sang Nhật Bản vừa “tỵ nạn”vừa ra mắt Tống lão phu nhân để tổ chức hôn lễ với Tống Mỹ Linh, để mặc cho các phe phái đấu đá nhau. Tháng 1/1928, Tưởng trở về Trung Quốc dùng thủ đoạn vừa đánh vừa kéo, hất chân được 2 đối thủ đáng gờm nhất là Uông Tinh Vệ và Hồ Hán Dân, trở thành Bộ trưởng Tổ chức Trung ương Quốc dân đảng, Chủ tịch uỷ ban quân sự trung ương, Tổng Tư lệnh quân cách mạng quốc dân, thâu tóm 3 đại quyền đảng – chính - quân trong tay. Sau sự kiện bị “bức cung”, Tưởng rút ra bài học là phải hết sức chú trọng công tác tình báo để kịp thời “tiên phát chế nhân” - ra tay khống chế đối thủ trước. Do đó Tưởng quyết định thành lập lại tổ chức tình báo với mạng lưới đặc vụ tinh nhuệ. Nhiệm vụ này được ủy thác cho tay sát thủ số 1 tuyệt đối trung thành Đới Lạp.
Đới Lạp tên thật là Đới Xuân Phong, sinh năm 1897 tại Giang Sơn, Triết Giang, từng học trường quân sự Hoàng Phố do Tưởng Giới Thạch làm hiệu trưởng. Nhờ được Hồ Tịnh An tiến cử, Đới Lạp được tham gia hoạt động trong Tổ điều tra bí mật Thượng Hải, tiền thân của Đặc vụ quân thống Quốc dân đảng. Đới Lạp tỏ ra rất có khả năng trong trinh sát, ám sát, mua chuộc…dần dần trở thành “ngọn dao găm bên người Tưởng Giới Thạch”. Đới Lạp từng kết nghĩa anh em với trùm sát thủ Vương Á Tiều, bố già Đỗ Nguyệt Thăng, tướng quân “hùm xám đông bắc” Trương Học Lương. Nhưng khi ra tay họ Đới rất tàn độc, chỉ biết theo lệnh Tưởng Giới Thạch. Những vụ án nổi tiếng sau này như ám sát “trùm sát thủ” Vương Á Tiều, Phu nhân Tống Khánh Linh, “Lỗ Trung Vương” Hàn Phục Cừ, quân trưởng Quân đoàn 2 của Đảng Cộng sản Cát Hồng Xương, chủ nhiệm tờ “Thân báo” Sử Lượng Tài…đều có bàn tay của Đới Lạp.
Thích khách họ Vương
Với họ Tưởng, cái “gai trong mắt” cần phải cần phải nhổ đầu tiên là Vương Á Tiều, trùm đảng Phủ Đầu (búa) ở Thượng Hải, được biết đến như một thích khách lừng danh thời Dân quốc. Vương là một “đặc cấp sát thủ”, chuyên hành nghề ám sát bất kể đảng phái.
![]() |
Vương Á Tiều lúc nhỏ |
Vương Á Tiều tự là Cửu Quang, tên trong gia phổ là Ngọc Thanh, biệt hiệu là Kình Vũ, sinh năm 1887 tại Ma Điếm, Hợp Phì, tỉnh An Huy, đồng hương với đại thần triều Thanh là Lý Hồng Chương. Vương là con nhà nghèo, cha là Vương Âm Đường làm nghề nông kiêm y thuật. Từ nhỏ, Vương Á Tiều đã có tiếng dũng mãnh, hào sảng, thường can thiệp chuyện bất bình. Năm Tuyên Thống thứ 3, cách mạng Tân Hợi (1911) nổ ra, thấy tình thế hỗn loạn Vương Á Tiều bèn vận động người trong làng tổ chức đơn vị vũ trang, mưu đồ chiếm đoạt gia sản của Lý Hồng Chương. Âm mưu này bị Tổng quản của Lý là Lưu Đông Sơn phát hiện, báo lên Ủy ban quân chính Lư Châu. Kết quả là một số đồng bọn bị xử tử còn Vương Á Tiều nhanh chân chạy lên Nam Kinh. Tại đây, Vương tham gia vào tổ chức đảng Xã hội của Giang Kháng Hổ, sang năm 1912 thì quay về An Huy hoạt động. Lúc này tướng quân phiệt Nghê Tự Xung cai quản An Huy, xem đảng Xã hội là loạn đảng nên ra lệnh truy nã, Vương Á Tiều lại chạy đến Thượng Hải.
Vốn giỏi giao tế, tại bến Thượng Hải, Vương đã thiết lập quan hệ thân thiết với đủ các hạng từ chính khách, quân nhân, thương nhân đến xã hội đen, lưu manh. Đặc biệt, y đã gặp gỡ và kết nghĩa huynh đệ với ông trùm Thanh bang Đỗ Nguyệt Thăng. Vương còn cùng một số bạn đồng hương như Đường Ấu Văn, Trịnh Ích Yêm tham gia vào tổ chức Chủ nghĩa vô chính phủ, và chính những luận lý của chủ nghĩa này đã gắn chặt suốt cuộc đời hoạt động ám sát của Vương Á Tiều sau đó.
Năm 1918, Vương Á Tiều đến Quảng Châu tham gia vận động “hộ pháp” (bảo vệ pháp quyền) của Tôn Trung Sơn. Năm 1921, cuộc vận động thất bại, Vương Á Tiều rời Quảng Đông tham gia vào tổ chức vũ trang địa phương của Hồ Bão Nhất phát động ở một dải Tô Bắc, hỗ trợ Hàn Khôi là người của Đảng Cộng sản chống lại chính phủ quân phiệt của Lý Thuần ở Giang Tô. Việc bất thành, Hàn Khôi bị nạn ở Nam Kinh còn Vương Á Tiều trốn về An Huy, sau đó lên lại Thượng Hải.
Mùa đông năm 1922, Thầm Tiểu Sầm, Vương Quang Huy lập Tổng hội Lao động Hồ Nam tại Thượng Hải. Vương Á Tiều cũng đi vận động đồng hương tổ chức thành lập Tổng hội Lao động An Huy.
Trở thành sát thủ chuyên nghiệp
Lúc bấy giờ ở Thượng Hải thịnh hành hình thức “bái tiên sinh” đối với người đứng đầu tổ chức. Các hội viên xem Vương Á Tiều là thầy, nhiều người còn gọi Vương là “Mạnh Thường Quân trên Bến Thượng Hải”. Dần dần, Tổng hội lao động An Huy trở thành một tổ chức bang hội dưới sự thống lĩnh của một mình Vương Á Tiều. Tiếp đó, Vương Á Tiều bành trướng thế lực, chiếm đoạt luôn Hội quán An Huy, lập ra “Phủ đầu bang” (đảng Đầu búa) chuyên hoạt động ám sát, bắt cóc thuê…cho các đảng phái để lấy tiền. Tiếng tăm bắt đầu dậy lên ở Bến Thượng Hải.
Năm 1924, hai tướng chỉ huy quân sự 2 tỉnh Triết Giang, Giang Tô là Lư Vĩnh Tường và Tề Tiếp Nguyên mâu thuẫn kịch liệt. Lư Vĩnh Tường muốn trừ khử tâm phúc của Tề Tiếp Nguyên là Từ Quốc Lương, đang làm chỉ huy trưởng Sở cảnh sát Tùng Lư, bèn sai con là Lư Tiểu Hạ đến Thượng Hải, thông qua Lý Thiếu Xuyên, Quan Vân Nông diện kiến Vương Á Tiều rồi đưa đến Hàng Châu gặp Lư Vĩnh Tường đàm phán. Vương Á Tiều đồng ý hành thích Từ Quốc Lương, nhận 20.000 đồng trở về Thượng Hải, lên kế hoạch cho Trịnh Ích Yêm và Chu Hỷ Nguyên ra tay. Cuộc ám sát thành công, Vương Á Tiều được Lư Vĩnh Tường trọng dụng, phong làm Tư lệnh quân đoàn du kích Triết Giang, phát cho hơn 400 khẩu súng bộ binh, được quyền mộ binh huấn luyện ở Hồ Châu.
![]() |
Vương Á Tiều lúc thành trùm ám sát |
Mùa hè năm 1925, chiến sự giữa quân đội 2 tỉnh Triết Giang và Giang Tô bùng nổ, Lư Vĩnh Tường chiến bại, Vương Á Tiều chạy trốn về Lư Châu.
Năm 1927, hai đảng Quốc dân và Cộng sản hợp tác lần thứ nhất, tiến hành “Bắc phạt”, Vương Á Tiều cùng Lưu Tinh Ngô đưa hơn 1000 quân từ An Huy tham gia, tấn công Hợp Phì, An Khánh. Tướng quân phiệt An Huy lúc này là Trần Điều Nguyên cho quân vây Vương Á Tiều ở hồ Hồng Trạch, hai bên giằng co suốt mấy tháng. Mùa xuân năm 1928, Vương dẫn 10 thuộc hạ phá vòng vây chạy về Nam Kinh. Sau sự kiện “12/4” (Quốc Dân đảng mượn tay Thanh Bang do Đỗ Nguyệt Thăng cầm đầu thảm sát công nhân Thượng Hải), Tưởng Giới Thạch tuyên bố thành lập chính phủ Quốc dân ở Nam Kinh. Tại lễ “định đô” long trọng tổ chức tại công viên Trung Sơn, Vương Á Tiều lấy danh nghĩa là đại diện cho giới công nhân phát biểu, có nhiều lời chỉ trích Tưởng Giới Thạch. Nổi giận, Tưởng mật lệnh cho chỉ huy trưởng cảnh sát TP Nam Kinh là Ôn Kiếm Cương truy bắt Vương Á Tiều. Vương nhanh chân thoát được, trốn về Thượng Hải.
Năm 1929, chính phủ Quốc dân đề xuất quốc hữu hóa ngành tàu biển, Triệu Thiết Kiều, ủy viên Đồng minh hội được cử làm Tổng biện (tổng giám sát và quản lý) Chiêu Thương Cục - tập đoàn tàu biển lớn nhất bấy giờ. Chủ tịch hội đồng quản trị Chiêu Thương Cục là Lý Quốc Kiệt thấy mất dần quyền lực, căm hận trong lòng, nhờ em là Lý Thiếu Xuyên thỉnh Vương Á Tiều giết Triệu Thiết Kiều với giá 15.000 đồng.
Khoảng 8 giờ sáng ngày 24/7/1930, Triệu Thiết Kiều vừa xuống xe thì bị tay chân Vương Á Tiều bắn chết. Để đền ơn, Lý Quốc Kiệt giao hết toàn bộ lợi nhuận của đại công ty Giang An cho họ Vương.
Ám sát Tưởng Giới Thạch
Ngày 28/2/1931, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh giam lỏng lãnh đạo “phái Tây Nam” Hồ Hán Dân tại Đãng Sơn, Nam Kinh. “Phái Tây Nam” nổi giận, Lâm Hoán Đình là Hoàng Cư Tố cho người đem số tiền khổng lồ 260.000 đồng đến Thượng Hải gặp Vương Á Tiều nhờ “giết Tưởng cứu Hồ”. Vương nhận lời, tổ chức điều nghiên và lên kế hoạch chặt chẽ cho Hoa Khắc Chi và Trịnh Bão Chân tổ chức 2 tổ ám sát đi Nam Kinh và Lư Sơn.
Tại Lư Sơn, sát thủ Trần Thành may gặp Tưởng Giới Thạch trong đường núi bèn móc súng bắn ngay. Khoảng cách xa, Trần thành lại quá căng thẳng nên đạn chỉ bay sượt người Tưởng. Thành bị vệ sĩ của Tưởng bắn chết. Tại Nam Kinh, 4 sát thủ đã có cơ hội khi Tưởng diễn thuyết, cải trang thành nhà báo và sinh viên trà trộn vào hội trường. Nhưng ngay thời điểm “ngàn cân treo sợi tóc” thì Vương Á Anh, vừa là tổng liên lạc vừa là vợ Vương Á Tiều, lại run sợ, phát ám hiệu “tạm hoãn hành động”, khiến vụ ám sát thất bại.
![]() |
Đới Lạp (trái) và Tưởng Giới Thạch |
Lúc này, Viện trưởng Viện Hành chính là Tôn Khoa-con trai của Tôn Trung Sơn, bị Tưởng Giới Thạch và Tống Tử Văn- bộ trưởng Bộ tài chính, em trai Tống Khánh Linh, bức phải từ chức. Tôn Khoa phái tay chân tâm phúc là Mã Siêu Tuấn đem nhiều vàng bạc bí mật đến gặp Vương Á Tiều nhờ “tính kế”. Vương nhận lời.
Tối ngày 23/7/1931, Vương Á Tiều theo phương châm “muốn hạ Tưởng phải khử Tống trước, làm rối loạn tổ chức kinh tế”, đích thân dẫn 18 sát thủ chia làm 2 cánh đến trạm Bắc Thượng Hải hành động. Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, nhóm Tống Tử Văn vừa xuống xe thì bị bọn sát thủ xả súng ngay. Nhưng may mắn, sát thủ bắn nhầm thư ký cơ yếu Đường Du Lư, Tống Tử Văn thoát chết trong gang tấc.
Ngày 29/4/1932, quân Nhật tổ chức ăn mừng lễ Thiên trường (sinh nhật Thiên Hoàng) tại công viên Hồng Khẩu, Thượng Hải. Vương Á Tiều nhận mật lệnh của Viện trưởng hành chính kiêm Tư lệnh cảnh sát dự bị vùng Kinh - Lư là Trần Minh Khu, cùng nhóm đệ tử của mình dùng mìn hẹn giờ đặc chế giết chết đại tướng Bạch Xuyên cùng một số sĩ quan cao cấp khác. Cả Nhật Bản bàng hoàng, dư luận thế giới chấn động. Tướng Bạch Xuyên bị giết làm Tưởng Giới Thạch đau đầu, lập tức ra lệnh cho Cơ quan đặc vụ của Đới Lạp điều tra kẻ chủ mưu vụ án “29/4”.
Tiếp đó, vào ngày 10/11, Vương Á Tiều lại lên kế hoạch ám sát Reaton, Trưởng đoàn điều tra của Liên minh quốc tế cử đến Thượng Hải. Ông này phát biểu rằng vùng đông bắc Trung Quốc là nước Mãn Châu, có thể tự do thông thương với Nhật Bản chứ không phụ thuộc Trung Quốc. Vương Á Tiều cùng các nhân sĩ Lý Thứ Sơn, Ngô Biên, Hứa Thế Anh…rất tức giận. Nhưng nhóm phụ trách hành thích gồm Đường Minh, Long Lâm không may bị bắt, bị Đới Lạp trực tiếp khai thác. Không chịu nổi đòn tra, cả hai khai ra các vụ ám sát trước đó cũng do Vương Á Tiều chủ mưu.
Khi Đới Lạp báo cáo xác nhận chính Vương Á Tiều - người anh kết nghĩa với mình – chính là kẻ chủ mưu vụ 29/4, Tưởng quyết định mua chuộc Vương Á Tiều. Được giao nhiệm vụ liên lạc, Đới Lạp bèn phái đặc vụ Hồ Bão Nhất, vốn là đệ tử của mình từng có thời gian cùng đi theo Vương Á Tiều, đem 40 ngàn đồng đến Thượng Hải mua chuộc. Vương Á Tiều cự tuyệt. Tưởng Giới Thạch lại hạ lệnh cho Hồ Tông Nam viết thư cho Vương Á Tiều, mời ra nhận chức phó chủ tịch tỉnh An Huy. Vương cũng cự tuyệt. Hai chiêu vô hiệu, Tưởng cho rằng Vương Á Tiều không muốn chịu khuất dưới hai đàn em năm xưa, bèn phái Dương Hổ là người đồng hương, từng cùng Á Tiều tham gia cách mạng Tân Hợi, hiện đang giữ chức tư lệnh cảnh sát dự bị Tùng-Lư, đến diện kiến Á Tiều, đưa ra cái giá là chức Trung tướng lục quân, nhưng kết quả vẫn là số không.
Nghe Dương Hổ về báo tình hình Vương Á Tiều, tuy ngoài miệng nói “hay lắm! hay lắm” nhưng trong lòngTưởng Giới Thạch đã hạ quyết tâm: Người này ta không dùng được thì phải quyết diệt đi để trừ hậu hoạn.
Đối với Vương Á Tiều, lúc đầu Đới Lạp cũng có chút trắc ẩn. Khi thành lập phòng đặc vụ, Đới Lạp từng tiến cử Vương với Tưởng, nhưng Tưởng cho rằng “người này tư tưởng tả khuynh, ta không sử dụng được”. Đới Lạp thấy vậy nên không nhắc đến nữa. Hiện tại, Vương Á Tiều đã trở thành mối lo lớn của Tưởng, Đới Lạp quyết định hy sinh tình riêng cho chủ. Thực lực và thủ đoạn của Vương Á Tiều thì Đới Lạp đã quá rõ: bắt được Vương tuyệt đối không phaỉ chuyện dễ. Sử dụng một số lượng lớn đặc vụ, giăng dày ở Thượng Hải, Đới dốc toàn lực nhằm bắt hoặc giết cho được Vương Á Tiều. Nát óc, Đới Lạp lập ra 3 phương án: Một là vây bắt, Đới Lạp giao cho quân cảnh Thượng Hải phong toả nghiêm mật đường bộ, đường thuỷ, đường không để phòng Á Tiều trốn đi. Hai là giữ bắt, Đới Lạp biết rõ Á Tiều có tài xuất quỷ nhập thần, bắt ngay là chuyện không tưởng, phải thả dây câu dài để bắt cá lớn, làm cho hắn mệt mỏi lơ là rồi bất ngờ tấn công. Ba là dụ bắt, Đới Lạp được Tưởng đồng ý treo giải thưởng 1 triệu đồng cho người nào bắt được Vương Á Tiều, ai biết chỗ dẫn đi bắt được thưởng 100.000 đồng.
Cuối cùng, Đới Lạp lập một biệt đội phản ứng nhanh, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Ám sát Uông Tinh Vệ để trả đũa
Đới Lạp và Vướng Á Tiều xưa là huynh đệ, nay ra cừu thù. Thượng Hải tuy lớn nhưng cũng khó có chỗ cho Vương Á Tiều dung thân. Lúc này Vương mới nhận ra sức mạnh thực sự của Đới Lạp.
Sau nhiều ngày theo dõi, một đêm khuya đặc vụ phát hiện Vương Á Tiều đi xe hơi đen vào một toà nhà. Lập tức mấy trăm quân cảnh phối hợp cảnh sát tô giới Pháp ở Thượng Hải cùng kéo đến vây chặt nhà rồi phá cửa xông vào. Căn phòng còn ấm hơi người, nhưng lùng sục khắp toà nhà cũng chẳng thấy bóng dáng Vương Á Tiều đâu. Thì ra Vương phát hiện những dấu hiệu khác thường đã nhảy từ lan can sân thượng xuống, nương theo một sợi dây thừng thoát xuống đất, men theo bóng tối của toà nhà trốn ra khu nghĩa trang gần đó.
Mùa hè năm 1933, đặc vụ của Đới Lạp dò ra được chỗ ở của Vương Á Anh người vợ thứ hai của Vương Á Tiều tại Thượng Hải. Đới ra lệnh không được làm kinh động, âm thầm bao vây chờ Vương Á Tiều đến nộp mạng.
Vương Á Anh cũng là tay sát thủ đáng gờm. Rạng sáng hôm ấy thấy Á Tiều an toàn trở về, vùa mừng vừa lo, chưa kịp hỏi han đã vạch rèm quan sát động tĩnh. Chỉ nhìn qua Á Anh đã kêu lên “không xong rồi”. Á Tiều nhìn ra quả nhiên thấy đặc vụ đa phong toả khắp phố. Trong lúc nguy cấp, Á Tiều nhìn thấy giỏ rau ở góc phòng, bèn mặc quần áo của Á Anh, buộc khăn lên trùm đầu, cạo sạch râu, hoá trang thành phụ nữ đi theo mấy bà đi mua thức ăn buổi sáng, cúi đầu đi qua các đặc vụ rất an nhiên. Vừa qua ngõ hẻm đã thấy hàng chục xe cảnh sát ập vào khu nhà khám xét, Á Tiều một lần nữa phá lưới mà đi.
Bị Đới Lạp bức bách phải trốn Hồng Kông, Vương Á Tiều rất căm uất. Mùa thu năm 1933, các tướng Lý Tế Thâm, Thái Diên Hài thực hiện “Sự biến Phúc Kiến”, lập chính phủ riêng, đối kháng trực tiếp với Tưởng Giới Thạch, Vương Á Tiều đến Phúc Châu đầu quân. Sự biến thất bại, Vương lại cùng nhóm Hoa Khắc Chi, Tôn Phụng Minh lên kế hoạch ám sát Tưởng Giới Thạch. Nhóm này lập ra hãng thông tấn Thần Quang làm bình phong bí mật cho kế hoạch lâu dài.
Ngày 1/11/1935, Đại hội Trung ương Quốc dân đảng lần 4 được tổ chức tại lễ đường đảng bộ trung ương tại đường Hồ Nam, Nam Kinh, báo chí tham dự khá đông. Sau khi khai mạc, dự định 111 người là Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương cùng xếp hàng trước lễ đường chụp ảnh lưu niệm. Nhưng chỉ có 110 người, vắng mặt “uỷ viên số 1” Tưởng Giới Thạch. “Uỷ viên số 2” là Viện trưởng Hành chính Uông Tinh Vệ rất vui vì các phe có thực lực đều đến tham dự đại hội, Uông lại được cử chủ trì lễ khai mạc, có cơ hội để thể hiện mình. Thấy vắng Tưởng, Uông tươi cười nói: “Không cần chờ Tưởng tiên sinh nữa, chúng ta cùng chụp ảnh lưu niệm”
“Đoàng”, một phát súng nổ vang, Uông Tinh Vệ gục xuống, máu tuôn như suối. Sát thủ Tôn Phụng Minh của phe Vương Á Tiều dưới vỏ bọc phóng viên hãng thông tấn Thần Quang vừa bắn xong, vung súng bước lên 2 bước hét lớn: “Giết chết thằng giặc bán nước này”. Các uỷ viên Quốc dân đảng xô nhau chạy tứ tán. Chỉ có thiếu soái Trương Học Lương (con trai tướng quân phiệt Trương Tác Lâm) là người dũng lược, tung ngay một đòn đá rất chính xác vào hạ bộ Tôn Phụng Minh khiến hắn quay 2 vòng rồi ngã gục. Đặc vụ xô đến, nổ súng bắn Minh chết ngay.
Tưởng Giới Thạch nghe động, từ trên lầu đi xuống, ôm Uông Tinh Vệ khóc và quát vệ binh đưa Uông đến bệnh viện”. Nhưng đã muộn…
Nội bộ Quốc dân đảng rối tung lên. Phe cải tổ cùng Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy ở Quảng Tây liên tục chất vấn, buộc tội Tưởng tổ chức sát hại Uông. Tưởng Giới Thạch đuối sức, bèn gọi Đới Lạp lên mắng chửi, hạn 3 ngày phải tìm ra thủ phạm phá án, nếu không sẽ trừng trị.
Cùng đường
Đới Lạp điều tra từng chi tiết nhỏ, sau đó chia quân làm 3 đường ra tay triệt hạ Hãng thông tấn Thần Quang. Một tổ đến Trấn Giang bắt Trưởng ban thời Hạ Ba Quang nhưng không gặp bèn bắt mẹ và con dâu Hạ Ba Quang. Tổ thứ hai truy bắt Chủ nhiệm hãng Hoa Khắc Chi, cũng không thành. Tổ thứ ba đến Nam Kinh, Thượng Hải bí mật bắt nguội vợ, em vợ của Hạ Bá Quang, bắt vợ Tôn Phụng Minh là Thôi Chính Dao và phóng viên Cốc Tử Phong. Đới Lạp xua tay chân lùng sục ngày đêm không nghỉ nhưng không có kết quả, bèn sử dụng độc kế: bắt mẹ của Hạ Bá Quang làm mồi nhử. Hạ Bá Quang vốn nặng chữ hiếu nên đành ra đầu thú.
Bị tra tấn tàn khốc không chịu nổi, Hạ Bá Quang khai mục đích chính của cuộc ám sát là giết Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ chỉ là mục tiêu dự bị. Hai kẻ chủ mưu là Vương Á Tiều và Hoa Khắc Chi thoát lưới, nhưng Đới Lạp đã bắt được hàng chục tội “cá lớn”, trong đó có cả phần tử của phe cải tổ khiến cho các thủ lĩnh của phe này như Trần Bích Quân, Trần Công Bác phải im hơi lặng tiếng, ngừng công kích. Tưởng Giới Thạch rất hài lòng. Đới Lạp được khen ngợi.
Tháng 3/1936, Đới Lạp chỉ huy 20 đặc vụ đến Hồng Kông quyết bắt cho được Vương Á Tiều. Trinh sát của Vương Á Tiều phát hiện. Vương vốn rất thân với Thống đốc Hồng Kông là Cát Hồng Lượng, có quan hệ mật thiết với cảnh sát nơi đây. Đới Lạp vừa đặt chân vào Hồng Kông đã bị cảnh sát bắt giữ vì tội mang vũ khí không khai báo khi nhập cảnh. TưởngGiới Thạch vội chỉ đạo Bộ ngoaị giao thương lượng với chính phủ Anh, Đới Lạp mới được thả ra sau 3 ngày bị giam giữ. Uất Vương Á Tiều tột độ, Đới lại tung tay chân truy bắt.
Một hôm Vương Á Tiều cùng các huynh đệ đến thương xá Điều Bố ở đường Cannes thì bị đặc vụ Tưởng bao vây. Vương Á Tiều, Trịnh Bão Chân, Dư Á Nông nhanh chân nhảy qua cửa sổ thoát ra ngoài. Dư Lập Quải cùng một tay súng ở lại đóng cửa tử thủ cho các đồng đảng trốn thoát, bị bắt sốngđưa về Thượng Hải.
Lại một lần nưã Vương Á Tiều thoát “thiên la địa võng” của Đới Lạp, rời Hồng Kông về Quảng Tây. Từ tháng 2 đến tháng 4/1936, Á Tiều 2 lần lên Nam Ninh du thuyết các tướng Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy làm phản nhưng đều thất bại, bị đối xử lạnh nhạt. Vương Á Tiều đành về nương nhờ Lý Tế Thâm, lòng vẫn o ngại một khi quân Quảng Tây hợp nhất với quân Nam Kinh của Tưởng thì mình sẽ trở thành vật hiến tế.
…Một đêm Vương Á Tiều thở dài buông ly rượu trong tay, ngửa mặt nhìn trăng, cảm thán: “Trăng sáng sao thưa, quạ bay về nam, lượn quanh ba vòng, không cành để đậu”. Năm xưa Tào Tháo nắm cả trăm vạn binh hùng, uy chấn Trung nguyên mà trên sông Xích Bích còn cảm thấy cô độc như thế, huống chi bọn ta ngày nay? Chi bằng về Diên An, đầu quân theo Đảng cộng sản”. Lý Tế Thâm kinh ngạc gắng thuyết phục Vương thận trọng.
Vương đáp: “Ta đã suy nghĩ kỹ rồi, Trung Quốc ngày nay các lực lượng chính trị đều hợp nhất với lão Tưởng, chỉ riêng có Đảng cộng sản là không mà thôi. Ta đã không còn đường để đi. Tế Thâm, anh có thể liên hệ giúp ta?” “ Những nhân sĩ cấp lãnh đạo của Đảng cộng sản tôi có quen biết như Chu An Lai, Chu Đức, nhưng Cửu ca, anh phải cân nhắc thật kỹ!”. Vương Á Tiều khẳng khái nói: “Nếu Trung Cộng không chịu tiếp nhận, ta se đơn độc huyết chiến, mở một đường máu mà đi”
Kỳ II: Mưu sát Tống Khánh Linh và Lỗ Trung Vương
Thiên Tường