“Tôi yêu em đến nay chừng có thể/ ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai” những câu thơ của Puskin từ lâu đã không còn xa lạ với nhiều thế hệ độc giả Việt Nam. Nhưng có lẽ, những bản tình ca của mặt trời thi ca Nga, phải đến Thúy Toàn mới thực sự lột tả được hết cái chân tình gửi gắm trong đó.
[links()]
Người ta biết ông là dịch giả của “Tôi yêu em”, nhưng ít người biết rằng, chính bản dịch “Tôi yêu em” đó lại xuất phát từ một câu chuyện tình mà bản thân ông là người trong cuộc.
Từ mặc cảm tự ti của anh chàng nông dân đến lời tâm tình “Tôi yêu em” sang Việt ngữ
Không phải một hai lần gặp ông nhưng lần nào gặp cũng khiến tôi có những ấn tượng khác nhau, lúc ông chỉn chu lễ phục trong những dịp quan trọng, lúc thì tuềnh toàng, giản dị trong chiếc sơ mi đã bạc màu và đôi dép xăng đan trung thành bấy nhiêu năm.
Chỉ có một điều không bao giờ thay đổi đó là nụ cười hiền hậu và sự niềm nở trong mỗi câu chuyện của ông. Năm nay, dịch giả Thúy Toàn đã bước vào tuổi 74 theo lịch Tây, và 75 theo lịch ta. Ông hồ hởi khoe sang năm sẽ được cơ quan tổ chức cho lên lễ “cụ”.
Ngồi nghe ông kể chuyện về cái làng chợ Dầu của ông, say mê không kém gì khi ông kể về nước Nga với những cánh rừng Taiga bạt ngàn, rừng thông rập rình như biển lớn và những cơn mưa tuyết trắng trời,... tôi không quên hỏi ông: “Ngoài hai tình yêu lớn đó, bác còn gửi tình cảm của mình cho những điều gì nữa?”.
Ông chỉ cười: “Hai phần còn lại, tôi dành cho bà ấy và công việc mà thôi”. Vui chuyện, ông cứ thế kể chuyện tuổi nhỏ, chuyện làng chuyện nước, chuyện dịch và cuối cùng dừng lại ở câu chuyện gia đình của mình.
![]() |
Dịch giả Thúy Toàn |
Ông và bà gặp nhau ở độ tuổi 15 – 16 khi cả hai cùng ở trong đoàn 100 học sinh được nhà nước cử đi học ở Liên Xô năm 1954. Ông hơn bà 1 tuổi nhưng sự già dặn thì lại có phần kém hơn. Cuộc sống nơi đất khách đã kéo những tâm hồn trẻ tuổi lại với nhau.
Không còn là những cô bé, cậu bé nữa nhưng nỗi nhớ nhà, nhớ quê, đôi khi có phần cảm thấy lạc lõng vẫn thường trực trong lòng những du học sinh hồi ấy. Để lấp đi nỗi buồn, họ lao vào học hành và phấn đấu.
Có thời gian, mọi người lại tổ chức những đợt liên hoan văn nghệ, đi dã ngoại, làm báo tường để tạo nên không khí của một gia đình lớn. Ông vốn nhiều tài lẻ, lại thêm cái gốc Kinh Bắc ăn sâu trong người nên hát quan họ hay lắm, không những thế lại khá “khờ”, hiền lành và dễ tính nên được nhiều cô gái trẻ trong đoàn thầm thương. Tuổi bấy giờ, chỉ lo học chứ ông nào có để ý tới ai.
Phần bà Chu Nga - vợ ông sau này, lúc bấy giờ cũng có nhiều người theo đuổi. Bà là con gái Hà Nội, xinh đẹp, trắng trẻo, ăn nói lại dịu dàng, khéo tay hay làm,... là niềm mơ ước của nhiều người vậy mà với anh chàng Thúy Toàn “nhà quê” lại cứ dửng dưng như thường, chỉ dừng lại ở mức độ bạn bè, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
Nhưng chính ông cũng không ngờ, chính cái “nhà quê” chân chất mộc mạc đó đã gây ấn tượng với cô Nga. Hồi ấy, cô đã có thể tự tay may váy áo cho mình, đẹp không kém gì thợ, thậm chí có phần hơn. Những chiếc váy cô may khiến bạn bè phải trầm trồ.
Đến khi nhận được từ tay cô chiếc áo sơ mi nam, anh chàng Thúy Toàn mới ngớ người ra. Không ngờ giữa bao nhiêu người, cô ấy lại chọn mình. Rồi chiếc áo len, chiếc khăn mùa đông cứ lẳng lặng thay cho lời thầm kín. Biết tình cảm mà cô dành cho mình nhưng cái mặc cảm “anh nhà quê” vẫn còn, khiến anh không dám tiến lên.
Học được 2 năm thì tốt nghiệp lớp phiên dịch, các du học sinh lần lượt trở về nước để nhận nhiệm vụ công tác, chỉ còn lại 19 người được nhà nước quyết định cử học tiếp để sau về làm công tác giảng dạy tiếng Nga. Cả hai ông bà đều nằm trong số đó.
Chỉ còn lại một nhóm nhỏ, họ chuyển sang kí túc nằm trong khu học xá dành cho sinh viên nước ngoài. Việc hỗ trợ nhau học hành càng được trú trọng hơn. Bình thường, Thúy Toàn là chàng trai khá nhanh nhẹn trong mọi việc nhưng cũng hay vội vàng nên không sâu.
Đến mùa thi, buộc phải có sự phụ đạo của các bạn nữ. Đoàn chỉ có 4 nữ thì ông đã có riêng một gia sư là bà. Tình cảm của cả hai cứ ngày càng gắn kết nhưng vẫn chỉ là “tình trong như đã mặt ngoài còn e”.
Năm 1958 – 1959, một biến cố lớn diễn ra ở nơi quê nhà của ông. Tâm trạng của người con xa quê càng thêm phần lo lắng. Trong suốt thời gian đó, bà vẫn luôn bên ông, quan tâm và động viên nhiều hơn. Điều này khiến ông vô cùng cảm động. Ông cảm cái tấm chân tình mà thương bà nhiều hơn.
Tình yêu của cả hai cứ thế lớn dần lên. Những ngày nước Nga đẹp lãng mạn, mùa đông đẹp cái đẹp của sự dữ dội. Mùa hè, đi tàu từ Siberi đến Mát-xcơ-va, phong cảnh hai bên trùng trùng điệp điệp.
Những ga xép vắng người, heo hút với những bà những mẹ hiền hậu bán dăm thức quà rẻ tiền,... Những buổi dã ngoại ở ngoại thành, khi ánh nắng lên buổi tinh sương ngây ngất lòng người. Những buổi khiêu vũ cuối tuần ở trường đại học, những buổi hẹn hò chiều chiều,... khiến cho tình yêu của cả hai cứ thế trôi đi trong sự lãng mạn và ngọt ngào.
Lúc này, ông đã bắt đầu dịch những bài thơ, truyện ngắn, truyện cổ tích đầu tiên rồi gửi về nước, đăng trên các báo Thiếu niên tiền phong, Người giáo viên nhân dân, Văn học,... Chữ ông thì xấu, nhưng cái tên lại như con gái khiến nhiều người ngờ ngợ.
Đến khoảng cuối 1959-1960 thì ông gửi những bản dịch thơ tình về. Đến bản dịch “Tôi yêu em” của Puskin thì nét chữ lại tròn trịa, ngay ngắn khiến mọi người càng đồn rằng ông là con gái.
Ông kể, thời yêu nhau, nhiều khi ai cũng cho là mình đúng. Con gái thì thường hay dỗi, nhiều khi ông không biết phải “dỗ” thế nào. Cái mặc cảm của anh “nhà quê” vẫn khiến ông thấy tự ti trong tình yêu, cái cảm giác lép vế nhiều khi thành cam chịu và chấp nhận.
Vì vậy, khi đọc Puskin, ông vỡ ra liền dịch: “Tôi yêu em đến nay chừng có thể”, tự nhiên như chính ông đang kể về chuyện tình của mình vậy. Chỉ dám nhận là “tôi”, không dám nhận là “anh”, vừa có cái cao thượng của người đàn ông, vừa có cái bất cần: “À thế thôi, tôi chịu một bề”, dù có được yêu trở lại hay không cũng không nề hà gì.
Nếu tình yêu không được đáp, cũng sẽ cầu chúc cho người mình yêu được hạnh phúc. Puskin đã nói đúng tâm trạng của chàng trai trẻ Thúy Toàn nên những câu thơ cứ lần lượt hiện lên trong đầu ông bằng ngôn ngữ mẹ đẻ:
“Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai.../ Tôi yêu em âm thầm không hi vọng/ Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen/ Tôi yêu em chân thành đằm thắm/ Cầu cho em có được người tình như tôi đã yêu em”.
Bài thơ như một lời chân thành gửi đến người con gái, ai mà không rung động cho được. Có lẽ chính điều này khiến bà không thể rời xa ông. Để rồi đến 1963, khi đã về nước, họ tổ chức đám cưới sau nhiều năm gắn bó bên nhau.
Vượt qua sóng gió “ghen tuông” để chốt lại ở một gia đình hạnh phúc
Năm 1961, khi kết thúc khóa học của mình, ông trở về nước. Ông được phân công giảng dạy tại Trường Trung cấp ngoại ngữ Thanh Xuân. Bà Chu Nga về Viện Khoa học Xã hội, sau đó chuyển về làm cán bộ nghiên cứu của Viện văn học.
Ngày ấy, quãng đường từ Thanh Xuân lên đến chỗ ở của bà trên phố vẫn còn xa xôi do còn thiếu phương tiện đi lại. Vậy mà cứ cuối tuần, anh chàng Thúy Toàn lại có mặt để “ăn chực” tại nhà bếp của Viện văn học.
Chỉ là để có cơ hội gặp nhau, nhìn thấy nhau, nói với nhau ít lời là cảm thấy hạnh phúc rồi. Thời buổi khó khăn, đồng lương ba cọc ba đồng, nhiều khi phải xoay ra làm thêm để trang trải cho sinh hoạt. Ông viết báo, rà bản thảo, dịch cho các nhà xuất bản... thời gian dành cho nhau đâu có được nhiều.
Đám cưới không phải để kết thúc cho một câu chuyện tình mà là mở ra một câu chuyện tình tiếp theo. Không còn là tình yêu chỉ có hai người mà còn thêm phần trách nhiệm và sự vun đắp cho hạnh phúc, lo lắng cho con cái, gia đình nội ngoại hai bên.
Vốn là con cái gia đình có điều kiện, tính bà không quen chắt bóp chi li. Ông lại là con nhà buôn bán, từ nhỏ đã phải thay cha mẹ và chị chăm lo cho các em nhỏ, lớn lên một chút lại đi học xa nhà nên nhiều khi phải căn cơ chi tiêu cho vừa đủ, đỡ phải phiền hà tới người khác.
Hai tính cách này, khi về ở cùng một nhà tưởng như mâu thuẫn, hóa ra lại hỗ trợ cho nhau. Cho tới khi về già, gánh nặng cơm áo và con cái đỡ đi, cái tính “thảo” của bà lại càng phát huy triệt để, có bao nhiêu, quý con quý cháu, bà đem mua sắm, quà cáp hết.
Còn ông, nhiều khi cũng để phòng xa cho gia đình, phải lập quỹ đen. Đến khi về hưu, cùng anh em lập ra trung tâm văn hóa Đông Tây, ông đã có chừng hai chục triệu để đóng góp vào. Số tiền ấy bây giờ không nhiều, nhưng thời điểm hiện tại thì không nhỏ.
Biết chuyện, bà Nga chỉ cười. Bà biết cái đam mê với văn học, dịch thuật và ước mong tiếp tục được làm việc của ông vẫn còn rất lớn.
Từ yêu đến cưới, rồi từ đám cưới đến khi con cái đã trưởng thành, bí quyết để ông bà cùng nhau giữ vững hạnh phúc gia đình không gì khác là sự tin tưởng, yêu thương và vị nể dành cho nhau. Mỗi người đều cố gắng dung hòa bản thân với người còn lại và điều quan trọng nhất là sự hi sinh, hi sinh để mong điều tốt lành nhất cho người kia.
Những năm tháng tuổi già, cả hai vợ chồng Thúy Toàn- Chu Nga vẫn tiếp tục với những đam mê của mình, bà chuyên sâu vào nghiên cứu, ông viết sách, dịch và viết báo. Hạnh phúc viên mãn của họ là cái đích mà con cháu đều phải hướng tới và noi theo.
- Trầm Huệ