Trong thời kỳ phong kiến của Trung Quốc, giá trị trinh tiết của phụ nữ được đánh giá cao. Đặc biệt, những phụ nữ được chọn vào cung điện hoàng gia cần phải tôn trọng giá trị này hơn hết. Chỉ những cô gái vẫn giữ được "cái ngàn vàng" mới đủ điều kiện để phục vụ hoàng đế và các phi tần. Nếu họ may mắn được hoàng đế yêu thích, họ sẽ có cơ hội thay đổi cuộc sống, từ một bước chân trở thành phượng hoàng.
Tuy nhiên, lịch sử Trung Quốc đã chứng kiến một trường hợp ngoại lệ, khi một phụ nữ đã có gia đình vẫn được chọn làm hoàng hậu. Đó chính là Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu (178 – 126 TCN), còn được biết đến với tên gọi Hiếu Cảnh Thái hậu, là vị Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là mẹ đẻ của Hán Vũ Đế Lưu Triệt, một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Từ bỏ gia đình, chồng con để nhập cung
Theo Sử ký tác ẩn của Tư Mã Trinh, Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu có tên khuê danh là Vương Chí. Trong sách Hán Vũ cố sự, bà được gọi là Xu Nhi, và sách Tính thị thư biện chứng cho biết bà có húy là Chí, biểu tự A Du.
Bà là người đến từ Hữu Phù Phong, thôn Hòe Lý (nay thuộc Hàm Dương, Thiểm Tây). Cha bà là Vương Trọng, mẹ là Tạng Nhi, cháu của Yên vương Tạng Đồ thời Hán Sở. Cha mẹ bà có 3 người con, sau khi cha mất, mẹ tái hôn với họ Điền ở Trường Lăng và sinh thêm 2 người con trai.
Vương Chí sau đó kết hôn với Kim Vương Tôn, người sống gần nhà và sinh ra một người con gái tên là Kim Tục. Kim Vương Tôn chỉ là một người có gia cảnh bình thường, trong khi gia tộc của Vương Chí có xuất thân quyền quý. Mặc dù gia thế đã sa sút nhưng mẹ của bà vẫn muốn con gái được gả vào hào môn.
Một ngày kia, mẹ của Vương Chí mời một thầy bói đến xem vận mệnh cho gia đình. Thầy bói này nói rằng Vương thị có số mệnh phú quý, mẹ của bà liền gọi con gái về, yêu cầu ly hôn với Kim Vương Tôn. Nhà họ Kim phản đối không chịu làm thủ tục. Tạng Nhi bèn giữ con gái ở nhà, âm thầm giấu cuộc hôn nhân này và cho con nhập cung hầu hạ Hoàng thái tử Lưu Khải. Vương Chí sau đó được phong làm mỹ nhân.
Vương Chí nổi tiếng với vẻ đẹp quyến rũ, sắc nước hút hồn, chỉ cần nhìn qua trong nháy mắt, cũng đủ làm người ta mê mẩn cả đời. Với nhan sắc và tài nghệ của mình, mỹ nhân này đã được Lưu Khải sủng ái tột cùng.
Năm thứ 7 của Hậu Nguyên thời Hán Văn Đế (157 TCN), Hán Văn Đế qua đời. Năm sau (156 TCN), Lưu Khải lên ngôi, tức là Hán Cảnh Đế, lập thái tử phi Bạc thị làm hoàng hậu. Vương thị sinh 3 công chúa nên được phong làm phu nhân. Sau đó, bà sinh ra hoàng tử thứ 11, chính là Lưu Triệt. Đây là người con út của bà, cũng là con trai duy nhất.
Đoạt ngai vàng cho con nhờ mưu kế thâm sâu
Sau khi sinh ra, Lưu Triệt luôn được Hán Cảnh Đế yêu thương hơn các hoàng tử khác. Vào năm thứ 4 của thời kỳ Tiền Nguyên dưới triều Hán Cảnh Đế (153 TCN), Hán Cảnh Đế đã phong Lưu Vinh, con trai của Lịch cơ, làm hoàng thái tử. Cùng năm đó, Hán Cảnh Đế đã phong Lưu Triệt, mới 4 tuổi, làm Giao Đông vương. Theo quy định của nhà Hán, mẫu thân của các chư hầu vương chỉ được phong là thái hậu sau khi hoàng đế băng hà, nhưng Vương phu nhân lại được hoàng đế phá lệ, được phong làm Giao Đông vương Thái hậu.
Câu chuyện về việc Giao Đông vương Thái hậu giúp con trai Lưu Triệt lên kế vị được biết đến rộng rãi nhất thông qua câu chuyện nổi tiếng trong Hán Vũ cố sự. Khi đó, chị cùng mẹ của Hán Cảnh Đế, Quán Đào công chúa Lưu Phiếu, muốn gả con gái là Trần thị cho hoàng thái tử Lưu Vinh, nhưng Lịch Cơ từ chối một cách thô bạo. Điều này khiến công chúa tức giận, nên công chúa đã quay sang nghị hôn với Giao Đông vương Thái hậu. Khi đó, Vương thị muốn tìm chỗ dựa nên đã nhận lời thông gia với công chúa. Rõ ràng, công chúa ủng hộ con rể tương lai thay ngôi thái tử, để con gái của mình có thể trở thành thái tử phi, và sau này là hoàng hậu Đại Hán.
Quán Đào công chúa thường khen ngợi Lưu Triệt trước mặt Cảnh Đế, khiến Cảnh Đế càng thêm yêu mến Lưu Triệt. Lịch Cơ được sủng ái, lại có con làm Thái tử nên tỏ ra kiêu ngạo. Quán Đào công chúa đã nhân cơ hội này để gièm pha: "Lịch Cơ cùng các quý phu nhân, sủng cơ khác tụ tập. Sau lưng thường sai cung nữ dùng tà thuật nguyền rủa", Cảnh Đế nghe vậy không vui nhưng vì tình yêu với vợ nên đã tha cho Lịch Cơ.
Sau đó, công chúa cùng Giao Đông vương Thái hậu đã xúi giục đại thần dâng tấu sớ lên Hán Cảnh Đế đề nghị lập Lịch cơ làm hoàng hậu. Quan đại thần Đại Hành đã nghe theo, kiến nghị điều này lên Cảnh Đế. Cảnh Đế đang không vừa lòng Lịch Cơ, cho rằng Đại Hành bị Lịch cơ xúi giục nên đã tức giận sai xử tử Đại Hành. Đồng thời, Cảnh Đế đã xuống chiếu phế truất Thái tử Lưu Vinh, giáng làm Lâm Giang vương. Lịch Cơ phẫn uất qua đời. Tháng 4, ngày Ất Tỵ, Vương thị được sách lập Kế hậu. Ngày Đinh Tỵ, Lưu Triệt với thân phận đích tử, được Cảnh Đế phong làm Thái tử.
Năm 141 TCN, tháng giêng, Hán Cảnh Đế băng hà, Lưu Triệt lên lên ngôi, tức Hán Vũ Đế. Vương hoàng hậu được tôn làm Hoàng thái hậu. Năm Nguyên Sóc thứ 3 (126 TCN), tháng 6, ngày Canh Ngọ, Hoàng thái hậu Vương thị băng thệ, được hợp táng với Hán Cảnh Đế ở Dương lăng, thụy hiệu là Hiếu Cảnh Hoàng hậu.