Chanh là một số loài thực vật cho quả nhỏ, thuộc chi Cam chanh (Citrus), khi chín có màu xanh hoặc vàng, thịt quả có vị chua. Quả chanh được sử dụng làm thực phẩm trên khắp thế giới – chủ yếu dùng nước ép của nó, thế nhưng phần cơm (các múi của chanh) và vỏ (zest) cũng được sử dụng, chủ yếu là trong nấu ăn và nướng bánh.
Trong sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, giáo sư Đỗ Tất Lợi mô tả chanh là loại cây nhỏ nhắn hay có gai, gai dài 35 mm, búp non có màu đỏ. Lá hình trứng hay hình dài, dài 5,5-11 cm, rộng 3,5-6 cm, mép có răng cưa. Hoa trắng, nhuốm tím hạt hay đỏ tím, mọc đơn độc thành từng chùm 2-3 hoa. Lá có hình mũi mác, nhẵn hơi có lông. Quả nhỏ, vỏ mỏng nhẵn, chia thành 10-12 múi, mỗi múi chứa 2-3 hạt. Cơm quả rất chua.
Về phân bố, giáo sư Đỗ Tất Lợi cho hay chanh được trồng khắp ở nước ta. Mùa hoa của cây vào tháng 3-5, mùa quả từ tháng 6-9. Ngoài ra, người dân còn trồng một vụ chanh chiêm vào tháng 1-2.
Người dân trồng loại cây này chủ yếu lấy quả để ăn, lá làm gia vị. Trong Đông y, chanh được tận dụng từ quả, lá, rễ để làm vị thuốc, được thu hái gần như quanh năm, dùng cả tươi và khô.
Lớp vỏ xanh của chanh chứa tinh dầu là một chất lỏng màu vàng nhạt, mùi thơm chanh, còn vỏ trắng chứa pectin.
Giáo sư Lợi cho biết rong dịch quả chanh có 80-82% nước, 5-7% axit xitric, 1-2% xitrat axit canxi, kali, xitrat ety và 0,4-0,5% axit malic. Ngoài ra còn 0,4-0,75% đường interverti, 0,5% sacaroza, 0,75-1% protit. Độ tro 0,5%, vitamin C 65 mg trong 100 g dịch tươi.
Lá chanh chứa tinh dầu mùi thơm dễ chịu. Hàm lượng tinh dầu trong lá thay đổi từ 0,33-0,5%. Ngoài ra,lá còn chất stachydrin, một dẫn xuất của prolin.