Lịch sử phong kiến Việt Nam ghi nhận vua Tự Đức là vị vua có nhiều vợ nhất. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Thi, tự Hồng Nhậm, sinh 25/8/1829. Tự Đức là con của vua Thiệu Trị và Hoàng quý phi Phạm Thị Hằng (Từ Dụ Thái hậu). Năm Tự Đức 19 tuổi, vua Thiệu Trị qua đời vì bệnh nặng, ông cũng kế ngôi từ đó.
Tự Đức – vị vua chí hiếu với mẹ nhưng không thể có con
Trong triều Nguyễn, Tự Đức là vị vua trị vì lâu nhất với 36 năm (1847 – 1883). Ông có đến 103 người vợ nhưng lại không có một người con ruột nào. Nguyên nhân là bởi từ nhỏ Tự Đức đã bị bệnh đậu mùa, ốm đau triền miên nên sức khỏe không tốt.
Sử sách chép lại rằng vua Tự Đức mất khả năng sinh dục (bất lực) vì biến chứng của bệnh đậu mùa. Với thời đại phong kiến, việc không có con nối dõi là tuyệt tự, phạm vào 1 trong 3 tội lớn. 3 người cháu ruột được Tự Đức nhận làm con nuôi là Ưng Chân, Ưng Đường và Ưng Đăng. Trong đó, Ưng Chân sau này được truyền ngôi, gọi là vua Dục Đức.
Bà Từ Dũ vốn là một người rất quan tâm, chăm lo đến đời sống muôn dân. Tuy sống trong cung cấm nhưng nhiều việc bên ngoài bà vẫn nắm rõ. Chính bà nhiều lần đã khuyên con trai xem xét việc giảm thuế cho dân những năm mất mùa, đói kém. May mắn cho vị mẫu hậu nhân từ là có một người con chí hiếu nên những lời ngọc của bà nhanh chóng được Tự Đức áp dụng, mang lại tiếng thơm cho vương triều.
Phụng sự mẹ tận đạo làm con nhưng chính vị vua này cũng ghi danh trong lịch sử là vị vua tuyệt tự. Đây cũng là điều đau khổ nhất của ông vì theo quan niệm của Nho giáo “Bất hiếu hữu tam, vô hậu chi đại” (có 3 điều bất hiếu, không có con là điều nặng nhất). Tự Đức suốt 36 năm trị vì, với hoàng phi Lệ Thiên Anh (sau khi mất mới phong làm hoàng hậu) không có mụn con nào.
Với nhiều cung phi khác, Tự Đức cũng thất bại trong việc có con nối dõi. Nguyên nhân do vua lúc bé bị bệnh đậu mùa nên không thể có con. Ông vua chí hiếu này đành nhận ba người cháu làm con nuôi để truyền ngôi là Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Ưng Ái (tức vua Dục Đức), Hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Kỷ (tức vua Đồng Khánh) và Hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Đăng (tức vua Kiến Phúc).
Vua Tự Đức nổi tiếng là vị vua cưới vợ sớm, nhiều vợ. Ông biết mình khó có con nên đã tìm đủ mọi cách để chữa trị. Nhiều bài thuốc bí truyền, dân gian, quý hiếm của trong lẫn ngoài nước đều được vua dùng qua. Thậm chí có giai thoại cho biết Tự Đức đã hạ cố lấy một người phụ nữ từng có 1 đời chồng để mong có con. Ông đến các ngôi chùa linh thiêng cầu khấn, đổi các tên chùa ở Huế vì sợ chữ Thiên phạm húy. Thế nên mới có chuyện chùa Thiên Mụ thành Linh Mụ, Thiên Ấn thành Từ Ân… Đáng tiếc là nỗ lực nhiều song Tự Đức vẫn không thể có con rồng.
Tự Đức – vị vua cực giỏi văn thơ nhưng thi văn đỗ... cuối bảng
Tự Đức được ghi nhận là ông vua uyên thâm nhất triều Nguyễn. Ông rất chăm lo việc khoa bảng, thi cử và đặt ra các khoa thi nhằm chọn lấy người có tài văn học ra làm quan.
Tự Đức là người ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Đêm nào ông cũng xem sách đến khuya. Ông làm nhiều thơ băng chữ Hán, trong đó có bộ Ngự Chế Việt sử tổng vịnh, vịnh hàng trăm nhân vật trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, ông còn làm cả sách bằng chữ Nôm để dạy cho dân dễ hiểu, điển hình như Luận Ngữ diễn ca, Thập điều, Tự học diễn ca...Tự Đức cũng có một thú vui tao nhã là giao thiệp, đối họa thi phú với những nhà thơ, học giả đương thời.
Tự Đức còn là ông vua yêu thích lịch sử , chính trị, tự tay vua còn phê nhiều lời bình luân trong bộ sử lớn Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, từ đời thượng cổ cho tới hết thời nhà Hậu Lê. Vua cũng rất yêu nghệ thuật, là người chỉ đạo để các nghệ sĩ đương thời soạn những vở tuồng lớn Vạn bửu trình tường, Quần phương hiến thụy… Nghệ thuật kiến trúc cũng được vua Tự Đức say mê nghiên cứu và ứng dụng, tiêu biểu nhất chính là lăng vua. Chính nhà vua đã "chuẩn định" mô thức xây dựng lăng, trong khuôn viên trọng khoảng 12 ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành cụm trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Các hệ thống bậc cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch bát tràng đã nối tất cả các công trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần gũi.
Thế nhưng bên cạnh tất cả những miêu tả về con người tài hoa ấy cũng có một câu chuyện nhỏ vui vui cho thấy sự đánh giá về tài văn thơ của nhà vua khác hẳn bình thường. Bản thân vua cũng thường tự hào về tài văn chương của mình. Vua thường nói: “Trẫm không đi thi nhưng nếu đi thi nhất định trẫm sẽ đỗ Trạng nguyên”.
Thấy mọi người không có vẻ tán đồng, Tự Đức liền nghĩ ra một cách, ông cùng một số vị đại khoa làm một bài luận rồi rọc phách gửi sang nhờ vua Thanh lập ban giám khảo chấm giúp. Tự tin nghĩ thế nào mình cũng đỗ đầu nhưng hoá ra bài văn của Tự Đức xếp cuối; trong bài của ông có lời phê rằng: “Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách, không phải là người thường nhưng là người không có tài mấy!”.
Thực ra câu chuyện này chỉ là một nét chấm phá cho bức tranh miêu tả vị vua tài hoa thêm phần sinh động chứ tài năng của vua Tự Đức thì đã được cả người đương thời và hậu thế công nhận và trân trọng.
Vua Tự Đức là một trong những vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, thời kỳ chế độ phong kiến Việt Nam dần suy tàn. Thời điểm đó nước ta có quốc hiệu là Đại Nam, nghĩa là quốc gia rộng lớn ở phương Nam. Dưới thời vua Tự Đức, quân đội nhà Nguyễn ngày càng yếu, kinh tế trì trệ, nhiều cuộc nổi dậy xuất hiện. Ông tuy giỏi văn chương, chăm chỉ chuyện triều chính nhưng lại có tư tưởng bảo thủ, không nhìn xa trông rộng.
Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ tiếng súng đầu tiên ở bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng, bắt đầu xâm lược nước ta. Triều đình nhà Nguyễn khi đó bất lực trước sự tấn công của người Pháp nên chỉ nghĩ đến việc cắt đất cầu hòa. Năm 1883, Tự Đức qua đời, Pháp đưa quân vào đến kinh thành, ép triều đình nhà Nguyễn phải công nhận sự “bảo hộ” của chúng trên toàn lãnh thổ nước ta. Như vậy, kể từ sau thời Tự Đức, vua Nguyễn chỉ còn là hữu danh vô thực, làm bù nhìn.