Yến Lan và mối tình mộng mơ trên bến sông tuổi thơ

07:21, Thứ tư 13/06/2012

( PHUNUTODAY ) - Nhiều bạn văn của Yến Lan thán phục rằng: mối tình chồng vợ của nhà thơ Yến Lan đẹp hơn mọi bài thơ.

Yến Lan được người ta biết đến vì ông là tác giả của bài thơ bất hủ “Bến My Lăng”.  Nhưng cũng ít người biết được rằng bên bến sông và phố huyện An Nhơn ấy ông còn có những mối tình đầy lãng mạn góp phần làm nên một hồn thơ bảng lảng khiến cho một nhà phê bình tài hoa như Hoài Thanh cũng phải cảm thấy như đi trong mây mù khi đọc thơ ông.
[links()]
Bến sông huyền thoại

Yến Lan (1916 - 1998) tên thật là Lâm Thanh Lang, quê tại làng An Ngãi, thị xã  An Nhơn, tỉnh Bình Định. Mồ côi mẹ năm 6 tuổi, Yến Lan sống bằng nghề dạy học tư và viết văn.

Ông sáng tác thơ từ sớm và cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn hợp thành nhóm “Bàn thành tứ hữu” (bốn người bạn thơ đất Bình Định) nổi tiếng trên thi đàn lúc đó. Những năm ấy, văn đàn Thơ Mới rộ lên hình ảnh bến My Lăng trong thơ Yến Lan.

Nhiều năm sau, người ta vẫn còn tìm đến Yến Lan để hỏi về bến My Lăng. Bến My Lăng có thật trong đời thường hay chỉ là một biểu tượng thi ca? My Lăng hay mê Lan, si mê một cô gái để sau này thành bút danh và thành bạn đời của ông? Theo góc nhìn phân tâm học, một nhà nghiên cứu cho rằng, cái tên My Lăng mang đầy ẩn ức.

Vợ chồng thi nhân Yến Lan bên con gái
Vợ chồng thi nhân Yến Lan bên con gái

Trong tiếng Hán “my” với “mê” cùng một âm, trong chữ Nôm “mê” với “my” là một, “Lăng” với “Lang” là một, giọng địa phương phát âm Lang thành Lan, như thế My Lăng với Mê Lan thật không khác nhau là mấy. Thực tế thì thời trai trẻ, Yến Lan say mê một cô gái tên Lan bên bến sông. Cô gái ấy sau này trở thành là vợ của nhà thơ.

Chúng tôi đến thăm bến My Lăng vào một buổi chiều đã muộn. Nơi đây có con đường sắt đi ngang qua, kế đó, người ta đã xây dựng một cây cầu bê tông kiên cố.

Đứng trên cầu mà phóng tầm mắt ra xa nhìn những cồn cát ven sông, những hàng tre xanh mướt, mới thấy rằng, chả trách khi xưa Yến Lan lại bị mê hoặc bởi những đêm trăng trên bến sông này. Theo nhiều nguồn tài liệu, đó chính là bến đò Trường Thi trên sông Cửa Tiền.

Nhiều lần, Yến Lan giải thích rằng nó bắt nguồn từ một bến đò thật, bến Trường Thi, cách thị trấn Bình Định nơi ông ở khoảng mấy dặm đường. Mỗi lần qua bến sông này, nhìn doi cát cong cong, ông lại mơ tưởng xa xăm:

“Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách/ Rượu hết rồi ông lái chẳng buông câu/ Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách/ Ông lái buồn để gió lén mơn râu”… Gọi là Cửa Tiền bởi vì cửa chính của thành Bình Định nằm ở mặt này, và cảnh vật lại rất hoang vu như thời tiền sử.

Vì bến đò nằm gần đó nên gọi là bến Trường Thi như một niềm hoài niệm. Quả thực, Trường Thi đẹp mà buồn đến nao lòng. Cha Yến Lan đã bao lần vượt qua bến sông, lần theo câu hát để đến với một thôn nữ dệt lụa, sau này chính là mẹ ông.

Mối tơ duyên đầy thi vị ấy đã cho chúng ta một thi sĩ ngay từ thuở lọt lòng: “Quê ngoại bên kia bãi cát vàng/ Mẹ tôi về lỡ chuyến đò ngang/ Cơn đau trở dạ không giường chiếu/ Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng”.

Các nhà địa chí dù có đi dọc sông Côn, hay bất kì một dòng sông trên đất nước này cũng không thể tìm ra một địa danh nào có tên My Lăng. Chính thi sĩ đã sáng tạo ra một bến sông phi thời gian, phi không gian nó là bến đợi ai và ai đợi cũng không rõ nữa.

"Những ai đã có một lần đứng đợi một chuyến đò ngang... và nhất là những ai có nỗi hy vọng lớn lao phải chờ đợi... Bến My Lăng ở trong lòng tôi và có thể ở trong lòng bạn" – có lần nhà thơ khẳng định như vậy. Lại có người giải thích rằng, cái tên My Lăng gắn với kỷ niệm ấu thơ của Yến Lan.

Đó là những đêm trăng Yến Lan cùng cha về thăm người cậu làm nghề lái đò. Cha và cậu của Yến Lan thường hay cắm sào ở giữa sông uống rượu và ngắm trăng. Nhìn doi cát ven sông cha ông thấy nó giống như bờ mi mắt. Đó là cái tứ cho bài thơ bất hủ này.

Những mối tình mộng mơ trên dòng sông huyền thoại

Nhiều bạn văn của Yến Lan thán phục rằng: mối tình chồng vợ của nhà thơ Yến Lan đẹp hơn mọi bài thơ.
Nhiều bạn văn của Yến Lan thán phục rằng: mối tình chồng vợ của nhà thơ Yến Lan đẹp hơn mọi bài thơ.

Trên bến sông phố huyện ấy, Yến Lan đã có những bóng giai nhân đi qua cuộc đời, người tình nào cũng đẹp, mối tình nào cũng sâu. Nhưng có duyên mà không phận, nên nhiều cuộc tình không đi đến cuối con đường.

Hồi trai trẻ, Yến Lan có một mối tình đơn phương với một cô hàng xóm có vẻ đẹp rất Tây tên là Cúc. Nhà cô gái ấy quá giàu, còn Yến Lan thì quá nghèo, một mối tình đơn phương không môn đăng hộ đối. Nhà thơ cũng chưa một lần dám ngỏ lời mà chỉ biết bộc lộ bằng thơ:

“Nàng từ tuổi sánh hoa/ Không hay chồng đã hỏi/ Chàng từng bữa đi qua/ Yêu mà không dám nói. Cô gái đi lấy chồng, để lại trong lòng nhà thơ trẻ mối tình đầu đời đầy chua chát:

“Thói thường đăng đối cuộc nhân duyên/ Cha mẹ em giàu dễ để yên/ Cho một lứa đôi không xứng vế/ Dập ngay nguồn lửa mới vừa nhen/ Đang lúc mùa thu ngập lá rơi/ Chồng em đến cổng đón em rồi/ Cây hai vườn vẫn giao cành lá/ Chỉ có mình anh đứng lẻ loi…”.

Khi Yến Lan về Bình Định dạy học, một đồng nghiệp đang dạy học ở Tam Quan mời Yến Lan ra trường mình để cùng dạy và giới thiệu cho Yến Lan một cô gái ở gần nhà có tên là Điệp.

Nhà thơ đã có cảm tình đặc biệt với cô gái xinh đẹp ấy. Nhưng Yến Lan không ngờ cô gái lại bị câm. Cô gái cũng rất yêu nhà thơ. Những buổi gặp nhau, hai người chỉ nhìn nhau câm lặng mà không nói được thành lời.

Để thoát khỏi tình cảnh ấy, Yến Lan âm thầm chuẩn bị ra đi trong chuyến tàu đêm. Trong lúc chuẩn bị ra đi, thì cô gái đột ngột sang chỗ Yến Lan trọ, ôm chầm lấy nhà thơ khóc nức nở. Vài phút sau, cô gái lại đột ngột quay lưng về nhà mình.

Yến Lan thấy lòng dạ rối bời, ông bèn tới nhà cô gái để nhận lỗi. Nhà thơ bàng hoàng khi bước vào cổng và cô gái từ trong nhà lao ra ôm chặt đưa vào nhà. Nhà thơ thiếp trong vòng tay người đẹp. Đến 1h sáng hôm sau, cô gái câm đánh thức nhà thơ dậy cho kịp chuyến tàu. Từ ấy, họ vĩnh viễn bặt tin nhau.

Nhà thơ cho biết, bút danh Xuân Khai có từ lúc bước vào làng thơ, vì quen với hai cô bạn gái Thái Thị Bạch Yến và Nguyễn Thị Lan. Lúc ông dạy học ở chùa Ông (thị xã An Nhơn). Trong số học trò của ông có 2 cô gái xinh đẹp, chơi rất thân với nhau tên là Yến và Lan.

Hai cô này đã “thầm yêu, trộm nhớ” người thầy tài hoa. Trong một lần đi dạo trong chùa, Yến Lan đã vô tình nghe được tâm sự của 2 cô Yến và Lan.

Hai cô bảo với nhau rằng, chị em mình chơi thân như thế sau này sẽ không bao giờ rời nhau, nếu có chồng cả 2 cùng cưới một người chồng thật hiền để sống chung với nhau.

Khi ông yêu bà Lan, cũng là lúc hai người bạn gái ấy chia tay nhau. Cô Thái Thị Bạch Yến theo gia đình về thành phố Nha Trang và sau đó biệt tích. Còn cô Nguyễn Thị Lan thì sau này nhà thơ cưới làm vợ.

Trân quý mối tình của đôi bạn gái, ông đã đổi bút danh Xuân Khai thành bút danh Yến Lan, tên của hai người bạn gái ấy. Trong hồi ký, bà Lan viết:

“Năm đó, tôi mới lên lớp 10 thì được cha tôi cho vào trường nữ trong thành Bình Định học. 3 năm học từ lớp 5 đến lớp 3, kỳ nghỉ hè nào, tôi cũng đến anh để học thêm. Anh dạy rất nhiệt tình, giảng bài giọng rất hay, lại thấy anh ít rong chơi như các anh khác, nên tôi cũng có để ý.

Thỉnh thoảng, xem báo, lại gặp tên anh, tôi và người bạn gái cùng tuổi tên Bạch Yến đều tấm tắc: anh nhà nghèo mà sao giỏi thế! Năm 1937, cha tôi ép gả tôi cho một gia đình giàu có, tôi phải vâng lời.

2 tháng ở nhà chồng, tôi như bị bỏ tù, lại phải chịu đòn roi nhà chồng, tôi bỏ đi Quy Nhơn, rồi mua vé tàu vào Nha Trang. Sau, cha tôi đến tìm bảo tôi về. Hàng ngày, tôi đi chợ mua thức ăn ngang qua chùa Ông, nơi anh ở.

Anh thường đứng bên bờ thành, thỉnh thoảng lại khẽ gọi và hỏi tôi những câu chuyện vu vơ. Đầu năm 1940, anh ghé lại chơi và nói là anh sẽ ra dạy ở Thanh Hóa. Tết, anh về quê, tôi ghé thăm rồi nhận lời yêu anh.

Anh nói: “Anh coi em như mối tình đầu”... Nhưng cha mẹ tôi lại không đồng ý, có phần bởi cũng muốn con cái mình có chồng giàu có, sung sướng. Tôi rất buồn và lại bỏ nhà đi, vô một ngôi chùa ở Phan Thiết tu. Được ít lâu thì cha tôi sai anh tôi dẫn tôi về và đồng ý cho chúng tôi lo việc cưới xin.

Đám cưới của chúng tôi tổ chức vào ngày 20/4/1944”. Sau ngày thống nhất đất nước, hai ông bà trở về Bình Định, an dưỡng tuổi già. Bà Lan trở thành người vợ tảo tần chăm sóc cho Yến Lan.

Gia đình vốn nghèo khó, đất nước chiến tranh loạn lạc nhưng 2 vợ chồng nhà thơ vẫn nhất mực thuỷ chung yêu thương nhau. Mối tình thủy chung ấy đã được nhà thơ thổ lộ trong bài thơ “Tặng hoa” (1938) rất đằm thắm:

“Tuổi trẻ băng đồng đi hái hoa/ Tặng em, ngấp nghé chực quanh nhà/ Người không ra đón, hoa dần héo/ Héo cả làn mây đỉnh núi xa/ Không trách ai đâu, chỉ trách mình/ Dáng nghèo, lam lũ áo thư sinh/ Bó hoa đơn giản, hương đồng nội/ Lầu gác, ai đâu dễ động tình/ Trở lại cành trơ, tự hổ ngươi/ Giá hoa còn đấy, hẳn đang tươi/ Vụng về đến nỗi vô duyên vậy/ Bởi hiểu hoa thôi, chẳng hiểu người…”.

2 năm cuối đời, ông bị đau nằm liệt giường. Mỗi lần làm thơ, ông chỉ đọc cho bà Lan ghi lại. Sau khi Yến Lan mất, mặc dù đã có tuổi rồi nhưng bà Nguyễn Thị Lan, người bạn đời của nhà thơ Yến Lan vẫn cần mẫn tìm tư liệu, viết hồi ký về nhà thơ, góp nhặt lại từng trang di cảo thành tập, một trong số đó là tập “Giếng loạn”.

Trong số nhà 19 đường Quang Trung, thị xã An Nhơn, một không gian thơ và những kỷ vật của Yến Lan được người vợ hiền của ông lưu giữ cẩn trọng.

Nhiều bạn văn của Yến Lan thán phục rằng: mối tình chồng vợ của nhà thơ Yến Lan đẹp hơn mọi bài thơ. Nhà thơ, nhà phê bình Trúc Thông đã nhận xét: “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại, Yến Lan thuộc loại “bố già”. Một “bố già” hiền lành. Không cân quắc, ngang tàng, vang động. Nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm...”. 

Quả thật, thơ cũng như người, thơ Yến Lan là con người ông càng tiết kiệm lời càng chuyển tải nhiều thông điệp, trong đó có thông tình yêu với người vợ một đời gắn bó.

  • Hải Dương
chia sẻ bài viết
Theo:  giaitri.thoibaovhnt.vn copy link
Tác giả:
Từ khóa:
Tin nên đọc