Đã bước qua cái tuổi “cổ lai hy”nhưng cặp vợ chồng mù ấy vẫn miệt mài đi hát rong và bán vé số lấy tiền nuôi 4 người con trưởng thành. Chuyện tình của họ từng trải qua không ít khó khăn thời chiến lẫn cuộc mưu sinh quay quắt thời bình nhưng vẫn thủy chung son sắc, đầy lãng mạn.
[links()]
Bốn năm hẹn hò mới hôn cái đầu tiên
Đó là câu chuyện tình đẹp của cặp “tình già Nguyễn Nghề và Phạm Thị Diệu ở Xóm 6 (phường Tân Lập, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk). Sinh ra tại Bình Định, năm 1942, lên 4 tuổi, đôi mắt bỗng nhiên bị mù hẳn cậu bé Nguyễn Nghề như rơi vào tuyệt vọng.
Nhà đông anh em, lại nghèo nên bố mẹ đưa đi chữa mãi vẫn không khỏi, trong khi gia sản trong nhà cũng ngày một cạn kiệt. Nhớ lại những ngày đầy cơ cực đó, ông Nghề rưng rưng: “Cứ thấy cha mẹ mình khóc lóc rồi đi vay mượn mình càng xót sa.
Năm lên 10 tuổi, bác sỹ nói không thể chữa được nữa, thế là coi như cuộc đời chìm hẳn trong tăm tối. Lúc đó tôi chỉ muốn chết quách đi cho xong nhưng nghĩ đến người thân nên lại thôi”. Cũng từ đó, Nguyễn Nghề quyết tự lập bằng cách học hát để đi hát rong kiếm sống.
“Có hôm thấy tôi tập hát theo các bài hát trong đài radio từ sáng đến tối rồi mệt lả, lăn ra ngủ quên cả ăn, bố mẹ tôi cứ can ngăn và định gửi tôi lên chùa nhưng tôi nhất quyết không chịu”-Ông Nguyễn Nghề bộc bạch.
Thời gian lặng lẽ trôi cho đến năm 25 tuổi, gia đình ông Nghề chuyển lên Đắk Lắk sinh sống, cũng từ đó tình cờ ông quen bà Phạm Thị Diệu, một cô gái cũng gặp nhiều bất hạnh. Diệu mồ côi, một mắt lại bị thong manh chỉ thấy mờ mờ, làm rửa chén cho cửa hàng ăn của ông chú họ. Hai số phận bất hạnh gặp nhau và dần nảy nở tình cảm.
Ông Nghề và bà Diệu hạnh phúc bên nhau |
Đúng lúc “lời yêu” vừa thốt ra thì chủ quán là ông chú bà Diệu chuyển quán đi huyện khác, cách chỗ ông Nghề hát rong hàng trăm kilomet. Thế nhưng để thỏa khát vọng và nỗi nhớ nhung, cứ cuối tháng, ông Nghề lại trích ra một số tiền nhọc nhằn và còm cõi của mình kiếm được từ nghề hát rong và nhờ người đưa ra xe đò để đến thăm bà Diệu.
“Lúc đó, cũng có người kỳ thị nói, đã mù lòa mà còn bày đặt yêu đương, nhiều đêm về nghĩ thấy tủi thân phát khóc. Nhưng rồi, nghĩ lai, mình mù nhưng chưa bao giờ xin ai đồng tiền nào, mình hát, ai thấy hay thì cho không thì thôi. Cũng là con người sao người mù lại không được yêu thế là lại có thêm sức mạnh để đến với bà Diệu”- Ông Nghề tâm sự.
Có không ít đêm trời mưa như trút nước, hai người cũng chỉ dám đứng ngoài cái hiên nhà dột nát nơi bà Diệu làm phục vụ, bởi ông chú của bà cũng cấm cản không cho bà yêu. Nhớ như in lần bị ông chú mắng như tát nước vào mặt, bà Diệu sụt sùi kể:
“Có hôm, ông Nghề bắt xe xuống và chờ tôi suốt hai tiếng đồng hồ, khi xong mọi việc tôi mới dám đi gặp người yêu để nói chuyện. Nhưng ông chú bắt gặp và chửi thẳng là: cái đồ kiết xác, mồ côi, sứt mẻ mà còn bày đặt hẹn hò…tống cổ đi nơi khác luôn bây giờ.
Lúc đó, nỗi buồn thân phận như trào dâng đến tận cùng nhưng tôi với anh Nghề vẫn quyết tâm dành dụm chút tiền để nuôi ước mơ xây một tổ ấm riêng”.
Kỳ thị là thế, ngăn cách, khó khăn là thế nhưng hai trái tim vẹn nguyên trên hai thân thể khiếm khuyết vẫn quyết tâm đến với nhau như chẳng thể có gì ngăn cản nổi.
Năm 1967, sau bốn năm nói lời yêu, sau bao cuộc hẹn hò, ông Nghề mới dám trao cho bà Diệu cái hôn đầu tiên. Đó là một đêm trăng rằm, hai người đã thề suốt đời sống hạnh phúc bên nhau.
“Lúc đó tôi như vỡ òa vì hạnh phúc, bởi lâu nay chỉ mong không phiền hà người thân đã là tốt lắm. Nhưng rồi sự chân thật của anh Nghề đã khiến trái tim tôi rung động. Có điều, khi tình yêu khăng khít thì họ hàng lại kịch liệt can ngăn, họ nói tôi đã mồ côi, “hai đứa như thế thì ai lo được cho ai”, với lại “cha mẹ tật nguyền, sinh ra con tật nguyền, tội nó”.
Cuối cùng, lý lẽ của con tim đã thắng. Anh Nghề từ đó chăm chỉ hơn, những đồng tiền tiết kiệm của anh tôi giữ kỹ và xem đó là tiền đề cho tương lai của hai đứa sau này. Tôi cũng thế, thức khuya, dậy sớm làm nhiều việc hơn”- Bà Diệu tâm sự.
Sức mạnh từ hai trái tim đang yêu
Sau cái hôn đầu tiên, năm 1968, bố mẹ ông Nghề qua đời, hai người anh thì về Sài Gòn sinh sống và lập nghiệp, mình ông ở trong căn nhà nhỏ lụp sụp do bố mẹ để lại. Mọi đau buồn như trì nặng trong tâm trí ông.
Đúng lúc đó, Mỹ lại leo thang bắn phá Tây Nguyên. Buôn Ma Thuột trở thành “miếng mồi” ngon cho chúng xâm chiếm. Khắp nơi đều xảy ra chết chóc, quán bán hàng ăn, nơi bà Diệu làm việc cũng bị giặc càn cho tơi tả.
Lòng căm phẫn giặc Mỹ trong lòng ông Nghề trỗi dậy nhưng mù lòa nên không ai cho ông gia nhập bộ đội. Sau bao đêm chằn trọc, ông lên thuyết phục tổ chức hãy đưa lúa về nhà ông để ông bí mật giã thành gạo cho bộ đội. Nhớ lại những ngày “bom rơi đạn lạc” đó, ông Nghề món mém kể:
“Ban đầu tổ chức do dự lắm nhưng sau thấy tôi quá thiết tha yêu cầu, hơn nữa bố mẹ tôi trước kia cũng làm nghề giã gạo nên có sẵn cối già, căn nhà tôi ở lại hút sâu nơi địch không chú ý đến. Thế là tổ chức tin và cho người đưa lúa đến cho tôi giã”.
Giã được bao nhiều gạo nhưng do mù hẳn nên không thể sàng sảy được. Ông Nghề nghĩ ngay đến người yêu của mình, thế là bà Diệu dọn về sàng sãy gạo cho ông. “Lúc quyết định dọn về sãy sàng gạo cho anh Nghề tôi cũng phải bí mật đi chứ ông chú mà phát hiện là ngăn cản ngay”- Bà Diệu kể.
Sức mạnh như được nhân lên, tổ chức lại nhiều lần khen ngợi nên không quản ngày đêm, càng giã được nhiều gạo cho bộ đội bao nhiêu, ông Nghề và bà Diệu càng hạnh phúc bấy nhiêu. Thấy sự thắm thiết và lý tưởng cao đẹp của hai trái tim đang yêu, hàng xóm đã tổ chức mấy mâm cơm mừng cho hai người chính thức thành vợ chồng.
Không chỉ sảy sàng gạo, một mắt còn sáng nên thỉnh thoảng bà Diệu còn đi giao gạo bộ đội và xem đó là công việc mình nên làm. “Dưới ánh đèn dầu leo lét, đêm nào chúng tôi cũng thấy ông Nghề miệt mài bên cối giã gạo, hình như ông ấy giã mà không biết mệt”- Ông Nguyễn Đức, hàng xóm ông Nghề nhớ lại.
Cơn mưa cuối mùa của phố núi bất chợt phủ mờ tấm kính cửa, lặng người đi rất lâu, bà Diệu xúc động giãi bày: “Có nhiều hôm anh Nghề ngủ gục ngay bên cối giã gạo. Chúng tôi quy ước với nhau phải giã thật nhiều gạo, khi nào giải phóng rồi mới sinh con.
Vì vậy, tuy đã thành vợ chồng nhưng vẫn ngủ riêng vì sợ sinh con lúc này sẽ không còn giúp gì được cho kháng chiến nữa. Có lần tôi đi giao gạo cho bộ đội, bị máy bay của địch quạt cho ngã nháo nhào nhưng may mắn là không trúng đạn.
Thời ấy chúng tôi chỉ mong nhanh đánh cho thằng Mỹ nó cút đi thôi, tình yêu cũng vậy, đẹp lắm chứ không thực dụng và vội vã như bây giờ đâu. Tôi với anh Nghề rất sung sướng và cảm thấy mình sống cũng có ích. Bao lần quân địch còn vào lùng sục nhưng chúng tôi ngụy trang dấu kỹ cối giã gạo xuống hầm bí mật nên chúng chẳng phát hiện ra được gì cả”.
Hạnh phúc bình dị tuổi xế chiều
Bây giờ cả ông Nghề và bà Diệu đều đã bước qua cái đốc bên kia của cuộc đời, gia đình tuy còn nhiều vất vả nhưng ông bà vẫn quyết giữ khí chất của người cách mạng để noi gương cho con cháu. Hớp xong ngụm trà nóng, với tay lấy chiếc radio đã sậm màu cũ kỹ, ông Nghề bồi hồi nhớ lại:
“Tuy không học được chữ, nhưng suốt từ thời kháng chiến, ngày nào tôi cũng nghe đài, nhất là các chương trình nói về lý tưởng cách mạng, lý tưởng của tình yêu. Sao mà cái thời đó gian khổ nhưng con người ta ý chí đến thế, khó khăn nào cũng vượt qua được.
Sau giải phóng vợ chồng tôi sinh được 4 người con, giờ đều trưởng thành cả. Cuộc sống vất vả nhưng chưa bao giờ hai vợ chống xảy ra cãi vã to tiếng, thời gian khó của chiến tranh người ta còn sống kham khổ được với nhau, sẵn sàng hy sinh cho nhau kia mà.
Mù thật đấy, nhưng tôi luôn dạy các con mình phải sống cho xứng đáng với những Liệt sỹ đã hy sinh cho hòa bình hôm nay. Tình yêu cũng thế, phải gắn với lý tưởng cuộc sống. Hồi mới sinh đứa con đầu tiên, gia đình tôi cực khổ lắm, nhưng rất sung sướng vì sinh ra đứa con nào cũng lành lặn cả”.
Có mặt trong buổi trò chuyện của chúng tôi, ông Võ Văn Hoàng, tổ trưởng khu phố cứ gật gù thán phục rằng: “Họ ý thức rất rõ những gian truân của cuộc mưu sinh đối với hai con người tật nguyền. Đều đã qua cái tuổi 70 nhưng anh Nghề, chị Diệu luôn biết trân trọng, giữ gìn và sống với hạnh phúc đang có từng ngày, từng giờ, từng phút.
Để rồi, ngày hai buổi, người ta lại thấy cảnh người vợ dẫn người chồng mù đi khắp các ngõ ngách của thành phố Buôn Ma Thuột bán vé số và hát dạo. Tôi nghĩ rằng đó là một công việc đáng trân trọng, chẳng có gì phải kỳ thị cả. Nhiều người lành lặn chắc gì đã sống và làm được những việc như anh Nghề”.
Ông Nghề nói về tấm Huân chương kháng chiến được treo trang trọng trong nhà: “Nhà nước trả công cho vợ chồng tôi xứng đáng rồi, tặng Huân chương và có trợ cấp hàng tháng, thỉnh thoảng còn tặng quà và động viên nữa.
Nhưng còn sức khỏe chúng tôi không thể ngồi yên được, góp thêm cho con cháu chút ít nào là vui chút ấy, đó cũng là cái thú vui và hạnh phúc của tuổi già. Với lại ngồi ở nhà buồn lắm, lại thấy mình vô dụng nữa.
Ngay từ ngày mới sinh đứa con đầu tiên, tôi đã đặt ra nguyên tắc tuyệt đối không đi ăn xin vì như thế sẽ làm con cái mình xấu hổ”.
- Hà Văn Đạo