Theo quy định điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 thì con ruột thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Điểu a khoản 1 Điều 651 ghi: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
Mặc dù thuộc hàng thừa kế thứ nhất nhưng không phải mọi trường hợp con ruột đều có quyền hưởng thừa kế.
Người để lại di sản có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản. Nhưng một số trường hợp cha mẹ có thể truất quyền thừa kế của con, hoặc một số trường hợp khác...
Các trường hợp con ruột nhưng không được hưởng thừa kế từ cha mẹ
Con không còn sống hoặc chưa thành thai
Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định, người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo đó thì con ruột nhưng lại đã qua đời khi mở thừa kế hoặc là con ruột nhưng trong tương lai (chưa thành thai ở thời điểm thừa kế, ví như còn đang là phôi trữ đông...) thì sẽ không được hưởng thừa kế.
Con bị kết án về hành vi vi phạm quyền của cha mẹ
Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 quy định những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Trường hợp con bị vi phạm những điều trên nhưng cha mẹ vẫn đồng ý cho thừa kế thì họ vẫn được hưởng. Còn trong trường hợp cha mẹ không để lại di chúc mà các anh em khác kiện và có chứng cớ bằng chứng người con đó vi phạm các điều trên thì họ không được hưởng và những người con đó không có quyền đòi hỏi cha mẹ cho thừa kế.
Con không có tên trong di chúc thừa kế
Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Tuy nhiên một số trường hợp người đã chết viết di chúc và không nhắc tới một số người thì pháp luật vẫn bảo vệ quyền thừa kế của họ. Điều đó gọi là thừa kế không phụ thuộc di chúc bao gồm: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động. Những trường hợp này được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật. Quy định trên không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật dân sự 2015.
Như vậy luật pháp chỉ bảo vệ đối tượng trên, còn trường hợp con đã thành niên và có khả năng lao động mà trong di chúc cha mẹ không đề cập đến việc để lại tài sản cho người con đó thì họ sẽ không được hưởng thừa kế bất kỳ tài sản nào (bao gồm cả nhà, đất) theo nội dung di chúc.
Con bị truất quyền thừa kế
Tại khoản 1 Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định, người lập di chúc có quyền sau: Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; Phân định phần di sản cho từng người thừa kế; Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; Giao nghĩa vụ cho người thừa kế; Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Như vậy nếu người con đủ điều kiện hưởng thừa kế nhưng cha mẹ lại truất quyền thừa kế ngay trong di chúc thì người thừa kế sẽ không được thừa kế di sản. Do đó, con bị cha, mẹ truất quyền hưởng di sản sẽ không được quyền hưởng thừa kế nhà, đất từ cha, mẹ.