Hoàn Nhan Địch Cổ Nãi là con trai thứ hai của Liêu vương Hoàn Nhan Tông Cán, còn gọi là Oát Bản, mẹ ông là Đại thị, vợ lẽ của Cán Bản (vợ chính của Cán Bản là Đồ Đan thị). Trên ông còn có một người anh là Hoàn Nhan Sung. Oát Bản chính là con trai trưởng của Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả, nhưng theo quy định của tộc Nữ Chân người không phải do vợ chính sinh ra thì không được lập tự, do vậy ngôi đích trưởng tử của Kim Thái Tổ là Hoàn Nhan Tông Tuấn. Năm Thiên Phụ thứ 6 (1122), ngày Nhâm Dần (24 tháng 2), Địch Cổ Nãi chào đời ở phủ Liêu vương.
Trong những năm này ngôi hoàng đế của nước Kim chuyển từ Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả sang Kim Thái Tông Hoàn Nhan Ngô Khất Mãi (em Thái Tổ), sau đó Thái Tông truyền ngôi cho cháu đích tôn của Thái Tổ (tức con của Hoàn Nhan Tông Tuấn) là Hoàn Nhan Hợp Lạt hay Hoàn Nhan Đản, tức là Kim Hi Tông (1134).
Năm Thiên Quyến thứ ba đời Kim Hi Tông (1139), Địch Cổ Nãi được 18 tuổi, do xuất thân tôn thất mà được phong làm Phụng Quốc Thượng tướng quân, làm Tiền nhậm sứ dưới quyền Lương vương Hoàn Nhan Tông Bật (tức Ngột Truật). Sau đó được phong làm Hành quân vạn hộ rồi Phiêu kị thượng tướng quân. Năm Hoằng Thống thứ tư (1144), gia Long Hổ Vệ thượng tướng quân, Trung Kinh lưu thủ; dời chức Quang Lộc đại phu.Sang năm sau (1145), phụ thân của ông là Oát Bản qia đời.
Ông vua có sở thích quái dị
Sử sách đánh giá Địch Cổ Nãi là một người có bản tính tàn độc, khắc nghiệt. Ông cho rằng phụ thân mình mới là trưởng tử của Kim Thái Tổ, nên ngôi báu phải thuộc về mình, vì vậy rất không phục đương kim Kim chủ. Lúc ở Trung Kinh, ông chuyên vụ lập uy nghiêm, tìm cách thu phục lòng người. Lúc đó có Tiêu Dụ ở Mạnh An mạnh mẽ dũng cảm, không sợ nguy hiểm, Lượng bèn kết nạp làm người của mình, thường bàn về chuyên thiên hạ. Tiêu Dụ biết chí hướng của ông nên thường khuyến khích ông cử hành đại sự.
Sau khi Hải Lăng Vương kế vị, việc đầu tiên làm là tuyển chọn mỹ nhân khắp cả nước. Số lượng mỹ nhân chốn hậu cung nhiều không kể xiết. Thậm chí ngay cả thê thiếp của các nghịch đảng đã bị giết cũng đều bị đưa vào hậu cung để phục vụ nhu cầu tình dục bệnh hoạn của ông ta.
Việc làm của ông ta vấp phải một làn sóng phản đối gay gắt từ phần lớn các đại thần trong triều. Nhưng Hải Lăng Vương nhất quyết bỏ ngoài tai và làm theo ý mình. Chính hoàng hậu ban đầu cũng là ái phi được ông hoàng này sủng ái nhất, nhưng khi tàn cuộc vui, cảm thấy chán ngấy thì hoàng hậu cũng bị ghẻ lạnh.
Giai nhân chốn hậu cung thoải mái cho ông ta ngày đêm hưởng lạc, thử nghiệm đủ các hình thức dâm đãng, muôn hình muôn vẻ, độc đáo khác người. Nhưng lòng tham vô đáy, dục vọng ngút trời, số lượng cung nữ như mây chốn hậu cung mãi rồi cũng thành cũ nên không thể đáp ứng được ham muốn bệnh hoạn của ông ta.
Hải Lăng Vương bắt đầu tìm cách sưu tầm thêm giai nhân. Bất kể là thiếu nữ hay gái nạ dòng chỉ cần vừa ý, quyết không buông tha. Nổi tiếng có mỹ nhân A Li Hổ đã từng qua 2 đời chồng nhưng nhan sắc nổi tiếng khắp vùng. Hải Lăng Vương sau khi nghe tin lập tức triệu vào cung cùng nàng ta hành lạc thâu đêm suốt sáng. Thậm chí con gái của A Li Hổ cũng được tiến cung để cùng mẹ hầu hạ Hải Lăng Vương.
Khi chán A Li Hổ, nghe tin vợ của sùng nghĩa quân tiết độ sứ Ô Đới nhan sắc nổi tiếng thiên hạ, dục vọng đê hèn nổi lên, Hải Lăng Vương lại tìm cách giết Ô Đới và lập tức đưa Đường Quát Định Ca lập vào cung. Sau khi nhập cung, Đinh Ca được Hải Lăng Vương vô cùng sủng ái, hai người thâu đêm suốt sáng chìm đắm trong nhục dục.
Nhưng cũng chẳng được bao lâu, Hải Lăng Vương lại dở chứng lạnh nhạt với nàng. Đường Quát Định Ca cô đơn sầu muộn, buồn bực nhưng cũng không có cách nào cưỡng ép Hải Lăng Vương quay lại với mình. Không chịu nổi sự cô đơn Định Ca đã thông dâm với nô bộc của mình. Sau khi chuyện tày định bị phát giác cả hai đều bị xử tội chết.
Sau khi Định Ca bị giết, em gái nàng là Thạch Ca vì nổi tiếng nhan sắc kiềm diễm lại tiếp tục bị ép đưa vào cung. Sau khi hành lạc giày vò chán Thạch Ca, Hải Lăng Vương còn vô sỉ triệu chồng nàng vào cung, bắt nàng dùng những lời lẽ bẩn thỉu thô tục để châm chọc chồng còn mình thì làm khán giả và cười thích thú.
Nhưng rồi một ngày kia Hải Lăng Vương nhìn thấy thị tỳ Hốt Thát của thái tổ trưởng công Chủ Ngột Lỗ nhan sắc lộng lẫy thì lại kiếm lý do giết chết Chủ Ngột Lỗ. Sau đó sắc phong cho Hốt Thát là Quốc phi nhân, ngày đêm dùng muôn kiểu bệnh hoạn để hành lạc với nàng.
Nhưng có lễ đỉnh điểm của sự vô lại đó chính là giết thúc phụ Tào Quốc Vương Tông Mẫn để chiếm đoạt vợ ông ta là A Lãn. Sau khi thỏa mãn được dục vọng với mỹ nhân A Lãn và cảm thấy vô cùng hài lòng liền phong cho nàng là Chiêu Phi thường xuyên giữ bên mình.
Năm 1161, Hải Lăng Vương đem quân xâm lược miền nam, muốn thôn tính tiêu diệt Nam Tông, thống nhất Trung Quốc, Hoàn Nhan Ung chuẩn bị thế lực đã lâu thừa cơ phát động binh biến tại Liêu Dương, tự xứng Đế. Tháng 11 cùng năm, đại quân của Hải Lăng Vương bị Ngu Doãn Văn của Nam Tống đánh cho thua to ở Thái Thạch Cơ, sau đó ông ta bị bộ tướng Hoàn Nhan Nguyên Nghi giết chết tại Dương Châu. Hoàn Nhan Ung đã xưng Đế nghĩ tới hành vi việc làm của Hải Lăng Vương, giáng tước hiệu ông ta xuống làm Hải Lăng quận vương, thụy hiệu là Dượng, nhưng vẫn chưa hả giận, sau đó lại giáng xuống phong là Hải Lăng thứ nhân, sử gọi là Hải Lăng Vương.