Theo quy định tại Điều 612 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015: Di sản thừa kế bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Liên quan tới việc thừa kế, thời gian thừa kế thì Khoản 1, Điều 611, Bộ luật Dân sự quy định: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại Khoản 2, Điều 71 của Bộ luật này (do tòa án xác định).
Theo quy định tại Điều 613, Bộ Luật Dân sự thì: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Trong trường hợp người chồng có con ngoài giá thú thì theo quy định người chồng phải có trách nhiệm với đứa trẻ đó. Người chồng qua đời thì con riêng, con ngoài giá thú vẫn được hưởng thừa kế khi chứng minh được quan hệ nhân thân, quan hệ cha con.
Theo quy định của pháp luật, Điều 649, Bộ Luật Dân sự quy định: Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Theo Điều 651, Bộ Luật dân sự quy định, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết (điểm a, Khoản 1, Điều 651, BLDS).
Dựa theo những quy định trên thì những người con riêng, con ngoài giá thú vẫn được hưởng thừa kế của người chồng trong khối tài sản chung với người vợ, nếu sau khi người chồng chết mà không để lại di chúc.
Về số tài sản được hưởng, cách phân chia tài sản thừa kế thì không phân biệt con trong giá thú hay ngoài giá thú, nên người con riêng vẫn được hưởng bằng số tài sản của những người con chung. Nhưng người con ngoài giá thú của người chồng thì sẽ không liên quan gì với tài sản riêng của người vợ hoặc tài sản riêng của người vợ trong khối tài sản chung với người chồng.