Nhà thơ, nhà văn đa tài này chính là Chế Lan Viên (tên thật Phan Ngoc Hoan). Ông sinh ra ở Quảng Trị, sống tại Bình Định từ nhỏ nhưng mối tình đầu lại diễn ra ở Đà Nẵng.
Trong khoảng thời gian năm 1942-1943, Chế Lan Viên dạy học trường Chấn Thanh ở Đà Nẵng. Trước đó, năm 16 tuổi, khi đang học lớp đệ tam niên (tiếng Pháp là cours de troisième année), Chế Lan Viên đã xuất ban tập thơ Điêu tàn. Nhà phê bình Hoài Thanh nhận xét rằng về việc ra mắt của một cây bút trẻ rằng: "đã đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị".
Trong hồi ký Bàn Thành tứ hữu, nhà thơ Quách Tấn có viết: "Chế Lan Viên đã đẹp trai, tài cao, giảng văn hấp dẫn. Học sinh ở Chấn Thanh hiện giờ cũng như ở Mission Thanh Hóa năm trước đều có cảm tình đặc biệt với Chế. Ở Chấn Thanh có năm, sáu nữ học sinh đều đem lòng yêu Chế. Cô nào cũng dễ thương nhưng có hai cô xuất sắc là Tuyết và Giáo. Chế Lan Viên rất để ý và cũng có cảm tình song chưa biết chọn cô nào là người chung thủy".
Về Tuyết và Giáo, có thể nói hai cô "mười phân vẹn mười", không ai thua kém ai. Nếu như Tuyết là người có vẻ đẹp quý phái, mặn mà, sắc sảo thì Giáo là cô gái dễ thương như thục nữ trong kinh thi. Điều này khiến Chế Lan Viên phân vân và hỏi ý kiến nhà thơ Quách Tấn. Đứng trước câu hỏi của Chế, nhà thơ Mùa cổ điển đưa ra góp ý chân tình: "Nếu Hoan muốn có quán trọ cao sang để nghỉ chân trên con đường thơ muôn dặm thì nên chọn Tuyết. Còn muốn có một tổ ấm để con chim trời bay mỗi đêm trở về nghỉ ngơi thì nên chọn Giáo".
Chế Lan Viên cũng đồng ý với điều này và đưa ra lựa chọn sẽ thành đôi với Giáo. Ít lâu sau, Chế gặp lại Quách Tấn và cho biết cả hai đã thề thốt nếu duyên trăm năm không thành thì hai người sẽ ở vậy suốt đời, anh không lấy vợ, em không lấy chồng.
Nghe xong, Quách Tấn cười và nói: "Thề thốt hơi vội… nhưng không sao. Trước hết, Hoan nên mượn người thân với gia đình Giáo đến nhà dò ý cha mẹ Giáo rồi hãy liệu".
Chuyện tình cảm của Hoan và Giáo tưởng chừng như suôn sẻ cho đến khi ông đặt vấn đề nghiêm túc với bố mẹ của người yêu. Ông bà Ba Hội - bố mẹ của cô Giáo không đồng ý và nhất quyết không gả con gái cho người không có sự nghiệp.
Khi bị cấm cản, Chế Lan Viên và cô Giáo vẫn quyết định đi theo tiếng gọi của trái tim để đến với nhau. Mùa hè năm 1943, ông đưa người yêu vào Nha Trang. Tại đây, dưới sự giúp đỡ của nhà thơ Quách Tấn, cô Giáo được gửi nhờ trong trường Đoàn Thị Điểm. Trong khi đó, chàng thanh niên Chế Lan Viên đến trú tại nhà của người bạn thân Nguyễn Đình.
Thấy con gái bỏ đi, ông Ba Hội đã nhờ ông Tư Hào, cậu của cô Giáo đi tìm. Nhà thơ Quách Tấn lại có quen biết với ông Tư Hào. Qua trò chuyện với người này, Quách Tấn biết biết được chỉ có ông Thông Tùng ở Đà Nẵng có thể tác động tới ông Ba Hội.
Nắm được thông tin quan trọng này chính là mấu chốt giúp chuyện tình của Chế Lan Viên và cô Giáo được chấp nhận. Nhà thơ Quách Tấn kể rằng: "Một mặt tôi nhờ ông Năm Cần dẫn Giáo lên cho ông Tư Tào để đưa về Đà Nẵng. Một mặt bảo Chế Lan Viên về thưa với ông bà cụ sắm lễ vật ra nhà ông Thông Tùng để cùng ông Thông Tùng đến nhà ông Ba Hội. Vài tháng sau lễ thành hôn cử hành ngày 26/9/1943. Cưới vợ rồi, Hoan không dạy ở Đà Nẵng nữa. Giáo về Bình Định ở với ông bà cụ Chế, còn Chế ra Huế dạy trường Việt Anh”.
Khi cuộc kháng chiến kiến quốc nổ ra, Chế Lan Viên nhiệt tình xung phong đi theo Cách mạng. Trở về sau một chiến dịch trên đường 9, năm 1949, ông được kết nạp vào Đảng.
Trong thời gian này, Chế Lan Viên và vợ - bà Nguyễn Thị Giáo sống hạnh phúc bên nhau và có ba người con (hai trai, một gái).
Tuy nhiên, sóng gió ập đến với cuộc hôn nhân của hai người vào khoảng năm 1958. Theo một số thông tin, khi đó, Chế Lan Viên phải đi chữa bệnh dài ngày ở Trung Quốc. Cô Giáo ở nhà không còn chung tình và muốn kết thúc cuộc hôn nhân này. Đây chính là nỗi khổ tâm lớn nhất của ông. Dù ông muốn níu kéo tình cảm vợ chồng nhưng cuối cùng cả hai vẫn phải nhờ tòa án phán xử.
Nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ - con gái nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, cho biết, bố cô cũng có mặt trong phiên tòa ly hôn của nhà thơ Chế Lan Viên và cô Giáo với tư cách người đại diện cơ quan và cũng là bạn thân của gia đình Chế Lan Viên. Theo lời kể của nhà nghiên cứu này, suốt buổi hôm đó, Chế Lan Viên ngồi im lặng. Khi mọi thủ tục đã được xử lý xong, trước khi ra về, nhà thơ lặng lẽ đứng lên và đọc 4 câu thơ, thay cho lời cuối cùng:
"Đến chỗ đông người anh biệt em
Quay đi thôi chớ để anh nhìn
Mày em trăng mới in ngần thật
Cắt đứt lòng anh trăng của em".
Sau khi ly hôn, một thời gian sau, Chế Lan Viên gặp nhà văn Vũ Thị Thường và bước vào một cuộc tình mới. Hai người kết hôn và có thêm hai con gái. Bà Thường chính là người đồng hành trong sự nghiệp văn chương và cũng là người ở bên cạnh nhà thơ cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Bà Thường là người cặm cụ, nhẫn nại đọc từng dòng chữ viết tay chi chít của chồng trong những cuốn sổ thay thơ. Sau này, các bài thơ đó được tổng hợp lại để xuất bản thành Di cảo thơ (gồm 3 tập).
Trong Di cảo thơ này có một bài thơ mang tên Những mảnh trời xưa viết được sáng tác trong khoảng 1957-1959. Bài thờ này có thể là những lời tâm sự thể hiện sự đau đớn khôn nguôi của Chế Lan Viên dành cho mới tình đầu:
"Người mang lại ái tình không ở cùng tôi nữa
Nhưng em còn quẩn mỗi câu thơ
Trời xanh của sông Hàn nay đã vỡ
Mỗi câu thơ là một mảnh trời xưa
Hạnh phúc em đong cho ta bằng đôi mắt nhỏ
Đôi chén đắng cay làm lòng nức nở
Mỗi bức thư như gạch lỡ đầu tường
Nhưng đạn xé vào thịt non không lấp nổi
Thơ anh viết những lời anh chẳng sống
Chiều nay anh viết: Yêu em!
Thức ăn cũ biến thành thuốc độc
Lối cỏ hoa xưa nay đã gài mìn".