Bị can Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên).
Ngày 15-12, VKSND Tối cao đã có cáo trạng vụ án gây thiệt hại kinh tế lớn xảy ra tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (Ngân hàng ACB) và một số đơn vị khác tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh; đồng thời truy tố 7 bị can với nhiều tội danh. Tổng số tiền thiệt hại do 7 bị can gây ra trong vụ án này là 1.695,6 tỷ đồng.
Trong đó, bị can Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) là cổ đông của Ngân hàng ACB, nguyên Phó Chủ tịch HĐQT, Phó Chủ tịch Hội đồng sáng lập Ngân hàng ACB, bị truy tố 4 tội danh: "kinh doanh trái phép" (tội danh có mức án cao nhất 2 năm tù - PV); "cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" (mức án cao nhất 20 năm tù); "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" (mức án cao nhất chung thân) và "trốn thuế" (mức án cao nhất 7 năm tù).
Hai bị can Trần Ngọc Thanh, Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội; Nguyễn Thị Hải Yến, Kế toán trưởng Công ty cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội bị truy tố về tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Các bị can Trần Xuân Giá, nguyên Chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB; Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, đều nguyên Phó Chủ tịch Ngân hàng ACB; Lý Xuân Hải, nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng ACB bị truy tố về tội "cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng". Tổng số tiền thiệt hại do 7 bị can gây ra trong vụ án này là 1.695,6 tỷ đồng. Cáo trạng này đã tống đạt đến các bị can nêu trên.
Theo cáo trạng, trong thời gian tháng 7 và tháng 8-2012, cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an nhận được nhiều đơn tố cáo của một số cá nhân do các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước chuyển đến; nội dung tố cáo Nguyễn Đức Kiên có hành vi kinh doanh trái phép, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế; thao túng ngân hàng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước. Đồng thời, cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an cũng nhận được Kết luận thanh tra của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội xác định Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (Chi nhánh Thăng Long và Chi nhánh Hà Nội) có một số sai phạm trong quản trị và hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Quá trình điều tra đã xác định Nguyễn Đức Kiên là cổ đông của Ngân hàng ACB từ năm 1993 đến nay. Nguyễn Đức Kiên và nhiều người thân trong gia đình Kiên sở hữu hơn 937 triệu cổ phần Ngân hàng ACB, chiếm 9,03% vốn điều lệ. Bản thân "bầu Kiên" sở hữu hơn 31,5 triệu cổ phần, chiếm 3,37%. Nguyễn Đức Kiên là Chủ tịch Hội đồng đầu tư Ngân hàng ACB từ năm 2003 đến tháng 8/2012 và đảm nhiệm chức danh Phó Chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB nhiệm kỳ từ năm 1994 đến 2008. Đến cuối năm 2007, Nguyễn Đức Kiên không tham gia HĐQT Ngân hàng ACB nhưng đề nghị HĐQT Ngân hàng ACB ra quyết định thành lập Hội đồng Sáng lập Ngân hàng ACB, do Kiên làm Phó Chủ tịch. Hội đồng sáng lập có chức năng tư vấn cho HĐQT; thành viên Hội đồng sáng lập được tham gia và cho ý kiến tại tất cả các cuộc họp của HĐQT và thường trực HĐQT Ngân hàng ACB, được cung cấp đầy đủ các tài liệu về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ACB.
Như vậy, tuy không giữ chức danh do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y nhưng với vị trí là Phó Chủ tịch Hội đồng sáng lập và đại diện nhóm cổ đông chiếm 9,03% vốn điều lệ, Nguyễn Đức Kiên có vai trò chỉ đạo, chi phối toàn bộ hoạt động quản trị, điều hành Ngân hàng ACB.
Nơi ở của Nguyễn Đức Kiên tại quận Tây Hồ.
Nguyễn Đức Kiên cũng thành lập, đồng thời là Chủ tịch HĐQT/Hội đồng thành viên của 6 công ty gồm: Công ty cổ phần Phát triển sản xuất và Xuất nhập khẩu Thiên Nam; Công ty cổ phần Đầu tư thương mại B&B; Công ty cổ phần Tập đoàn tài chính Á Châu; Công ty cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội; Công ty cổ phần Đầu tư Á Châu và Công ty TNHH Đầu tư tài chính Á Châu Hà Nội. Thông qua việc chỉ đạo, điều hành hoạt động đối với các công ty nêu trên và lợi dụng vai trò chỉ đạo, chi phối toàn bộ hoạt động quản trị, điều hành Ngân hàng ACB, "bầu Kiên" đã thực hiện hàng loạt hành vi phạm tội.
Theo cáo trạng, từ ngày 15-5-2007 đến ngày 3-8-2012, "bầu Kiên" đã thông qua 6 công ty trên để tổ chức hoạt động kinh doanh không đúng với nội dung đăng ký kinh doanh, lợi dụng các cơ quan, tổ chức này để kinh doanh cổ phần, cổ phiếu và kinh doanh vàng với số tiền hơn 21 nghìn tỷ đồng.
Năm 2009, Công ty B&B kinh doanh giá vàng trên tài khoản ngoài lãnh thổ Việt Nam với Ngân hàng ACB, thu được số tiền lãi hơn 100 tỷ đồng. Lợi dụng chính sách của Nhà nước về việc miễn thuế thu nhập cá nhân, Nguyễn Đức Kiên với thủ đoạn ký Hợp đồng hợp tác đầu tư tài chính giữa Công ty B&B với Nguyễn Thuý Hương (em gái Kiên) để chuyển lợi nhuận của doanh nghiệp sang cho cá nhân nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Công ty B&B số tiền hơn 25 tỷ đồng. Như vậy, Nguyễn Đức Kiên phải chịu trách nhiệm về hành vi trốn thuế.
Cáo trạng cũng nêu rõ Nguyễn Đức Kiên với tư cách là Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội đã chỉ đạo Trần Ngọc Thanh và Nguyễn Thị Hải Yến lập khống biên bản họp HĐQT và quyết định của HĐQT thể hiện chủ trương của HĐQT công ty để bán 20 triệu cổ phần Công ty cổ phần Thép Hoà Phát mà công ty này đang sở hữu. Số cổ phần này được cung cấp cho Công ty TNHH một thành viên Thép Hoà Phát nhằm tạo lòng tin cho công ty này để ký Hợp đồng mua cổ phần của Công ty cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội, lấy số tiền 264 tỷ đồng. Trong khi đó, số cổ phiếu này Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội đang thế chấp cho Ngân hàng ACB. Như vậy Nguyễn Đức Kiên có hành vi gian dối để chiếm đoạt tiền của Công ty TNHH một thành viên Thép Hoà Phát. Hai bị can Trần Ngọc Thanh và Nguyễn Thị Hải Yến mặc dù biết rõ số cổ phiếu đang thế chấp tại Ngân hàng ACB nhưng vẫn làm theo sự chỉ đạo của Nguyễn Đức Kiên nên phải chịu trách nhiệm với vai trò đồng phạm về hành vi "lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Ngoài các hành vi trên, "bầu Kiên" còn bị truy tố về tội "cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" cùng các bị can Trần Xuân Giá, Trịnh Kim Quang, Lê Vũ Kỳ, Lý Xuân Hải. Ông Giá là người quản trị lớn nhất của Ngân hàng ACB, biết rõ các quy định của Ngân hàng Nhà nước nhưng các bị can này vẫn đồng ý cho thực hiện chủ trương, ủy thác cho các nhân viên gửi tiền vào các tổ chức tín dụng sai quy định gây thiệt hại số tiền 718,9 tỷ đồng.
Cụ thể, ngày 22-3-2010, Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB và Nguyễn Đức Kiên đồng ý về việc ủy thác cho các cá nhân gửi tiền VND và USD tại các tổ chức tín dụng, từ ngày 27-6-2011 đến 5-9-2011, Lý Xuân Hải đã chỉ đạo và uỷ quyền cho Kế toán trưởng Nguyễn Văn Hoà thực hiện uỷ thác số tiền 718,9 tỷ đồng cho 19 nhân viên Ngân hàng ACB gửi tiết kiệm vào Vietinbank Chi nhánh Nhà Bè và Vietinbank Chi nhánh TP Hồ Chí Minh. Toàn bộ số tiền này đã bị Huỳnh Thị Huyền Như, nguyên Trưởng phòng giao dịch Điện Biên Phủ thuộc Vietinbank Chi nhánh TP Hồ Chí Minh chiếm đoạt.
Trong vụ án này, cơ quan điều tra đã khởi tố ông Phạm Trung Cang, nguyên Phó Chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB về tội "cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" do liên quan đến việc uỷ thác gửi tiền nêu trên. Cáo trạng nêu rõ ông Phạm Trung Cang có tham gia cuộc họp của Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB vào ngày 22-3-2010 đề ra chủ trương uỷ thác cho các cá nhân gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, ngày 31-12-2010, ông Cang có đơn xin từ nhiệm chức danh thành viên HĐQT Ngân hàng ACB khi Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 chưa có hiệu lực thi hành và đã được ngân hàng chấp nhận. Do đó, ông Cang không phải chịu trách nhiệm về hậu quả làm thất thoát số tiền 718,9 tỷ đồng. Do đó, ngày 12-12-2013, Viện KSND Tối cao đã ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Phạm Trung Cang. Đối với Kế toán trưởng Nguyễn Văn Hoà, bị can chỉ là người thực hiện các chủ trương, chỉ đạo của Thường trực HĐQT và "bầu Kiên" nên cơ quan điều tra xét thấy không cần thiết phải xử lý hình sự và đã có văn bản đề nghị xử lý hành chính nghiêm khắc đối với ông Hòa.
Đối với hành vi cấp tín dụng để đầu tư cổ phiếu Ngân hàng ACB, Nguyễn Đức Kiên với tư cách Chủ tịch Hội đồng đầu tư Ngân hàng ACB đã cùng với lãnh đạo Công ty ACBS để triển khai thực hiện việc đầu tư mua cổ phiếu ACB không đúng với chủ trương ngày 2-11-2009 của thường trực HĐQT Ngân hàng ACB, trái với quy định của Bộ Tài chính, gây thiệt hại cho Ngân hàng ACB hơn 687,7 tỷ đồng. Do đó, Nguyễn Đức Kiên và Lê Vũ Kỳ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do hành vi nêu trên gây ra.
Việc khởi tố và truy tố các bị can trong vụ án này là hồi chuông cảnh tỉnh và ngăn chặn kịp thời hiện tượng một số "đại gia" tìm cách lợi dụng kẽ hở pháp luật để thao túng ngân hàng, lũng đoạn tài chính quốc gia. Qua đó chấn chỉnh một số ngân hàng trong việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng và huy động, cho vay vượt trần lãi suất quy định. Đây cũng là bài học đắt giá cho một số cán bộ cao cấp sau khi nghỉ hưu bị doanh nghiệp lợi dụng uy tín, quan hệ để làm ăn trái pháp luật.
Tội lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009): 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân : a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. |