Vua Khải Định tên khai sinh là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, sinh ngày 8/10/1885, là vị hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn. Ông là con trưởng của Vua Đồng Khánh và Hòa Tần Dương Thị Thục. Nhà vua lên ngôi năm 31 tuổi, trị vì từ năm 1916 đến năm 1925 trong giai đoạn Pháp thuộc, tại vị gần 10 năm và mất vào năm 40 tuổi.
Có một giai thoại cho rằng vua Khải Định không thích đàn bà hay thậm chí là “bất lực”.
Tuy nhiên, theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu tâm lý hiện nay, vua Khải Định không phải bất lực, mà là không thích gần đàn bà. Trong cuốn Chuyện nội cung các vua Nguyễn, ông Nguyễn Đắc Xuân viết: "... Những buổi sáng phải ra điện Cần Chính thiết triều, các bà đứng hai hàng bái yết đón chào, vua liền dùng tay ôm gọn hai vạt áo bào sát vào người để khỏi vướng vào đàn bà".
Là vị vua thứ 12 của nhà Nguyễn, trị vì từ 1916 đến 1925, Khải Định không ăn nằm với bất kỳ bà vợ nào. Ông đã nuôi Nguyễn Đắc Vọng làm thị vệ và thường ôm ông Vọng để ngủ. Cũng nhờ sự ưu ái và khéo léo của trong việc phục tùng này mà ông Vọng được thăng chức nhanh lên Ngũ đẳng Thị vệ.
Vua Khải Định tỏ ra vô cùng buồn chán trước những buổi vũ múa do cung tần mỹ nữ đảm trách. Ông thậm chí còn bảo quan hãy thay thế bằng vũ công nam và yêu cầu họ phải thoa phấn, đánh má hồng và tô môi son đỏ; thậm chí cho họ mặc áo quần màu lòe loẹt… Theo một nghiên cứu, vua Khải Định cũng có sở thích ăn mặc đẹp, thiết kế những áo quần nhiều màu sắc, mang nhiều nữ trang trên người và đội nón lá.
Vua Bảo Đại có phải là con trai của Khải Định?
Trong cuốn Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam, sử gia người Pháp Daniel Grandclémant cho biết, năm 1907, sau khi vua Thành Thái bị phế truất, người Pháp định đưa Bửu Đảo lên ngôi, nhưng ngặt một nỗi ông đã 23 tuổi mà vẫn không có con (người vô hậu). Đình thần không muốn đặt lên ngai vàng một người vô hậu như vậy nên phải chấp nhận đưa Duy Tân là con vua Thành Thái lên ngôi vua.
Năm 1912, bà thứ thất của Bửu Đảo là Hoàng Thị Cúc (phong Huệ phi năm 1918, phong Đoan huy Hoàng thái hậu năm 1933) có thai (sau này sinh ra Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, vua Bảo Đại) và nhận là của ông hoàng. Sự việc này đã dấy lên những những hoài nghi ai là tác giả của cái thai đó. Các nhà viết sử trong và ngoài nước sau này đã đưa ra những giả thuyết, các chứng cứ và cho rằng, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy là con của Hoàng thân Hường Đ. (Hường Để).
Trong cuốn Chuyện các bà trong cung (tập 2), nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã căn cứ vào lời kể của Phan Văn Dật, di cảo của Ưng Đồng, tài liệu của R.Orband và của Nguyễn Đắc Vọng, Ngũ đẳng thị vệ triều Khải Định, cho biết không có chuyện Bửu Đảo "dùng" cô Cúc và may mắn cô Cúc có thai. Cô Cúc đã mang thai với chính Hường Đ. từ trước. Bửu Đảo đã nhờ hoàng thân Hường Đ., thuộc bậc ông, nhưng tuổi cùng trang lứa cháu giúp đỡ, san sẻ khó khăn không có con nối dõi, nên ông Hường Đ. đã ra tay giúp cháu.
Ông Xuân cũng cho hay, được sự giúp đỡ của anh Bửu Dương, ông đã đọc 17 cuốn vở gồm 1.700 trang viết tay của thầy Ưng Đồng (con trai cụ Hường Đ.) viết về lịch sử gia đình và họ hàng. Qua tập di cảo đồ sộ ấy, ông đã lọc ra được một số chi tiết liên quan đến sự việc Vĩnh Thụy chính là con Hường Đ. (Hường Để).
Tin cô Cúc có thai với Bửu Đảo mau chóng đến tai Bà Tiên cung (mẹ ông hoàng), bà Thánh cung (chính thất vua Đồng Khánh) và những người thân thích trong gia đình ông Phụng hóa công như một phép lạ. Để xác minh thực hư, bà Tiên cung và bà Thánh cung đã sai đào một cái hố (sâu khoảng 2 tấc), bảo cô Cúc nằm sấp, để cái bụng có mang nằm lọt dưới hố, rồi dùng roi đánh tra hỏi cô Cúc lấy ai mà vu cho ông Phụng hóa công. Cô Cúc cắn răng chịu đựng hình phạt và chỉ đinh ninh một lời khai đích thị có mang với Bửu Đảo.
Thế là các bà mừng rỡ công bố cho hoàng tộc biết Phụng hóa công sắp có con. Tin mừng mau chóng lan đi, những kẻ độc miệng trong đám cận thần cụt hứng không còn chế nhạo ông hoàng liệt dương và vô hậu nữa. Thế nhưng kể từ đó ông hoàng không có thêm được người con nào.
Trong cuốn Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam, sử gia Daniel Grandclémant cho biết, sau khi người Pháp chọn Bửu Đảo lên ngôi (năm 1916, lấy niên hiệu Khải Định) thay vua Duy Tân bị đầy sang đảo Réunion, ông có cưới thêm 10 bà phi, nhưng không ai sinh cho ông được người con nào.
Vua chỉ thích đàn ông, không thích đàn bà?
Phép lạ đã hết thiêng. Tuy nhiên, lệ trong triều vẫn cho ông rất nhiều phi tần, nhưng ông không hề đụng đến người nào. Hàng trăm người có nhan sắc được tuyển chọn khắp nơi trong cả nước phải sống tàn tạ, buồn phiền trong cung điện lạnh lùng băng giá.
Trong cuốn Chuyện các bà trong nội cung, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết thêm, nhiều người biết Khải Định bất lực, chính vua cũng nhận điều đó. Thế nhưng, các quan đại thần thì vẫn muốn “tiến” cung con gái mình vào làm vợ vua. Khó lòng chối từ, vua thường nói với các quan: "Nội cung của Trẫm là một cái chùa (ý nói không có chuyện ái ân tình dục), ai muốn tu thì cứ vào".
Năm 1916, ngay sau khi Khải Định lên ngôi, đại thần Hồ Đắc Trung đã “tiến” ngay vào Nội con gái mình là Hồ Thị Chỉ (người trước đó từng được “tiến” cho vua Duy Tân, nhưng vua không nhận vì đã yêu cô Mai Thị Vàng, con ông Mai Khắc Đôn, thầy dạy chữ Hán cho vua Duy Tân).
Là con quan đại thần, được triều đình cưới hỏi đúng nghi lễ, bà Hồ Thị Chỉ được phong chức rất cao, nhưng cũng vẫn ở vào bậc Ân Phi (Đệ nhị giai phi). Tước cao, chức trọng, danh nghĩa là vợ chính ở với vua Khải Định, nhưng thực chất bà chẳng được tí gì về ái ân chăn gối với ông vua “bất lực”.
Bà phải chấp nhận cảnh đóng kịch làm vợ vua như thế để được hưởng phú quý danh vọng, với ý nghĩ mình sẽ là mẹ đích thực của hoàng tử Vĩnh Thuỵ, vì bà Từ Cung tuy là mẹ sinh, nhưng là con nhà bình dân, lại không được cưới hỏi theo nghi lễ triều đình.
Thế nhưng, bà không được toại nguyện điều đó, vì trước khi lâm chung, Khải Định đã truyền trao cho bà Từ Cung lời di ngôn vắn tắt: “Tử quý, mẫu vinh”. Điều này đã khiến bà Hồ Thị Chỉ tức điên. Cuối cùng bà chết già trong một tu viện Thiên chúa giáo.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cũng cho biết vua Khải Định thích đàn ông chứ không thích đàn bà. Trong suốt 10 năm làm vua (1916-1925), vua đã nuôi ông Nguyễn Đắc Vọng làm thị vệ. Ban đêm, vua ôm Vọng ngủ. Nhờ sự khéo léo trong việc phục tùng này mà ông Vọng đã được thăng tiến đến Ngũ đẳng thị vệ. Những buổi sáng phải ra điện Cần Chánh thiết triều, các bà đứng hai hàng bái kiến đón chào, ông liền dùng tay ôm gọn hai vạt áo bào sát vào người để khỏi vương vào “đàn bà”…
Liên quan đến chuyện Khải Định thích đàn ông một số tư liệu khác cho biết thêm, nhà vua ham xem hát bội, nhưng lại không thích xem phụ nữ diễn. Đoàn tuồng ngự chỉ toàn nam giới. Gặp cảnh cần có đào thì nam đóng giả vai nữ.
Do vậy mà đoàn tuồng Thanh Bình dưới triều Khải Định có nhiều nghệ nhân nam rất giỏi. Bên cạnh đó, vua còn chuộng trang điểm, đeo nhiều trang sức, ăn mặc lòe loẹt, tự sáng chế ra những bộ y phục không giống ai cho mình.