6 trường hợp vi phạm nhưng CSGT không ra quyết định xử phạt, là trường hợp nào?

( PHUNUTODAY ) - Khi tham gia giao thông bằng xe đạp, xe máy, ô tô, nhiều trường hợp người điều khiển phương tiện cứ ngỡ rằng mình vi phạm Luật Giao thông đường bộ nhưng chiếu theo quy định cụ thể thì lực lượng CSGT không được xử phạt.

Có một số hành vi nhiều người khi chạy xe cứ tưởng mình vi phạm nhưng CSGT không được xử phạt vì pháp luật không cho phép. 

Empty

1. Xe máy không có gương chiếu hậu bên phải

Có đủ gương chiếu hậu là một trong những điều kiện đảm bảo cho ô tô, xe máy được phép tham gia giao thông (theo điểm e khoản 2 Điều 53 Luật Giao thông đường bộ 2008). Nếu vi phạm quy định này, người điều khiển phương tiện sẽ bị xử phạt vi phạm theo Nghị định 100/2019/NĐ-CP, được sửa bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP.

Trong khi ô tô chỉ cần không có đủ gương chiếu hậu là sẽ bị phạt từ 300 – 400 nghìn đồng (theo điểm a khoản 2 Điều 16) nhưng với xe máy vi phạm, người điều khiển phương tiện chỉ bị phạt khi điều khiển xe mà không có gương chiếu hậu bên trái hoặc có nhưng không có tác dụng.

Cụ thể, điểm a khoản 1 Điều 17 Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 100 – 200 nghìn đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: Điều khiển xe không có còi; đèn soi biển số; đèn báo hãm; gương chiếu hậu bên trái người điều khiển hoặc có nhưng không có tác dụng.

Như vậy, người điểu khiển xe máy không có gương chiếu hậu bên phải sẽ không bị xử phạt.

2. Đi xe máy bằng một tay

Khoản 3 Điều 30 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 nghiêm cấm người điều khiển xe mô tô 2 bánh, xe mô tô 3 bánh, xe gắn máy thực hiện hành vi buông cả hai tay hoặc đi xe bằng một bánh đối với xe 2 bánh, bằng 2 bánh đối với xe 3 bánh.

Việc buông cả 2 tay khi lái xe máy là hành vi vô cùng nguy hiểm, rất dễ xảy ra tai nạn giao thông. Chính vì vậy, người vi phạm bị xử phạt rất nặng theo quy định tại điểm a khoản 8 Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP, mức 6 – 8 triệu đồng đối, tước giấy phép lái xe từ 2 - 4 tháng.

Trong khi đó, hành vi đi xe máy bằng một tay cũng rất nguy hiểm nhưng lại không có điều khoản nào đặt ra mức phạt. Do vậy, việc đi xe máy bằng 1 tay sẽ không bị xử phạt.

3. Đi xe đạp, xe máy dàn hàng hai

Khoản 3 Điều 30 và khoản 1 Điều 31 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đều nghiêm cấm người điều khiển xe máy, xe đạp đi xe dàn hàng ngang. Nếu vi phạm, người điều khiển xe máy, xe đạp sẽ bị xử phạt vi phạm theo Nghị định 100/2019/NĐ-CP.

Tuy nhiên, Nghị định 100/2019/NĐ-CP lại chỉ quy định về mức phạt đối với xe đạp, xe máy đi dàn hàng ba trở lên. Cụ thể: Đi xe máy dàn hàng ngang từ 3 xe trở lên: Phạt từ 100 – 200 nghìn đồng. Đi xe đạp dàn hàng ngang 3 xe trở lên: Phạt từ 80 – 100 nghìn đồng.

Quy định hiện hành chưa có mức phạt cụ thể dành cho hành vi đi xe dàn hàng hai. Điều này đồng nghĩa rằng hành vi đi xe đạp, xe máy dàn hàng hai sẽ không bị xử phạt vi phạm giao thông.

Empty

4. Buông cả hai tay khi lái ô tô

Khoản 23 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ nghiêm cấm hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ nhưng chưa có quy định giải thích hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ là gì.

Cạnh đó, Nghị định 100/2019/NĐ-CP chỉ có quy định xử phạt với người dùng tay sử dụng điện thoại di động khi đang điều khiển xe trên đường chứ chưa có chế tài xử phạt người buông cả 2 tay khi lái ô tô.

Việc buông cả 2 tay khi lái ô tô là hành vi rất nguy hiểm, có thể dẫn đến tai nạn bất cứ lúc nào nhưng chưa có quy định xử phạt nên CSGT cũng không thể xử phạt người điều khiển phương tiện.

5. Đeo tai nghe khi điều khiển ô tô

Hiện nay, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chỉ yêu cầu người điều khiển xe mô tô, xe máy không sử dụng thiết bị âm thanh khi tham gia giao thông mà không yêu cầu người điều khiển ô tô thực hiện.

Mặt khác, Nghị định 100/2019/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP cũng không quy định về mức phạt đối với hành vi điều khiển ô tô mà sử dụng tai nghe khi tham gia giao thông.

Do đó, việc sử dụng tai nghe khi tham gia giao thông bằng ô tô không bị coi là hành vi vi phạm hành chính nên sẽ không bị xử phạt vi phạm.

6. Không xi nhan khi đi vào đường cong

Căn cứ Luật Giao thông đường bộ 2008 và Nghị định 100/2019/NĐ-CP, người điều khiển ô tô, xe máy bắt buộc phải bật xi nhan khi chuyển làn; chuyển hướng xe; khi ô tô lùi xe, dừng xe, đỗ xe. Nếu không bật xi nhan trong các trường hợp này, người điều khiển phương tiện sẽ bị xử phạt vi phạm.

Ngoài ra, các lái xe cũng được khuyến nghị nên xi nhan khi đi qua vòng xuyến, đi theo đường cong, đi qua ngã 3 chữ Y… để đảm bảo an toàn. Tuy nhiên đây chỉ là khuyến nghị chứ không phải yêu cầu bắt buộc.

Cùng đó, Nghị định 100/2019/NĐ-CP cũng không quy định nào bắt buộc phải bật xi nhan nếu đi vào đường cong.

Do đó, khi đi theo đường cong, người điều khiển phương tiện giao thông cua theo đường cong (không phải ngã rẽ, không chuyển hướng, không chuyển làn) mà không bật xi nhan cũng sẽ không bị phạt.

Dù pháp luật không xử phạt những hành vi nêu trên, tuy nhiên để đảm bảo an toàn giao thông, xử lý kịp thời những tình huống bất ngờ thì người tham gia giao chấp hành nghiêm các quy định, đảm bảo an toàn cho chính mình và người khác.

Thời hạn để cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt hành chính là bao lâu?

Căn cứ Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi bởi khoản 34 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 quy định như sau:

Empty

Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

1. Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:

a) Đối với vụ việc không thuộc trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản này, thời hạn ra quyết định xử phạt là 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật này;

b) Đối với vụ việc mà cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải xác minh các tình tiết có liên quan quy định tại Điều 59 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 01 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính;

c) Đối với vụ việc thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 02 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.

2. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức liên quan nếu có lỗi trong việc để quá thời hạn mà không ra quyết định xử phạt thì bị xử lý theo quy định của pháp luật

Theo như quy định trên thì thời hạn để cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt hành chính là trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi lập biên bản vi phạm hành chính về giao thông.

Theo:  giaitri.thoibaovhnt.com.vn copy link