Bé Long sinh ra khỏe mạnh nhưng một bên đùi trái có khối u to chiếm toàn bộ mặt sau, ngoài đùi. Sau thăm khám các bác sĩ kết luận bé Long có khối u bạch huyết nằm ở toàn bộ mặt sau cơ đùi trái. Do kích thước khối u lúc này đã rất lớn (5,3x16x17cm), nếu không loại bỏ sẽ ảnh hưởng đến chức năng vận động. Ngay lập tức bé được các bác sĩ chỉ định làm các xét nghiệm cơ bản để tiến hành phẫu thuật cắt bỏ khối u “khổng lồ” khỏi cơ thể cháu bé.
Cháu được các bác sĩ tiến hành tiêm xơ làm giảm tỷ lệ tái phát, tạo hình vạt da cơ đùi sau, giúp hình thể đùi gọn lại. Các bác sĩ nhận định, đây là một phẫu thuật phức tạp do thời gian gây mê lâu, phẫu tích khối u nằm trong cơ đùi gần thần kinh hông to thần kinh đùi, bệnh nhân dễ mất máu mất dịch thể.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Hoàng Hải Đức - Trưởng khoa Chỉnh Hình Nhi - Bệnh viện Nhi Trung Ương, u bạch huyết là dị tật của hệ thống bạch huyết, có thể gặp ở mọi lứa tuổi và mọi vị trí của cơ thể. Trong đó, 90% xảy ra ở trẻ em dưới 2 tuổi và hay gặp ở vùng đầu, cổ.
U bạch huyết có thể bị từ khi còn bé (bẩm sinh) hoặc mắc phải... U bạch huyết mắc phải thường xuất hiện sau chấn thương, viêm, hoặc tắc nghẽn bạch huyết, thường phát hiện tình cờ hoặc bệnh nhân có biểu hiện đau nhẹ tại vùng tổn thương.
Dấu hiệu và triệu chứng u bạch huyết
Có ba loại u bạch huyết với các triệu chứng biểu hiện của bệnh tùy thuộc vào kích thước và độ sâu của các mạch bạch huyết bất thường.
U bạch huyết dạng mao mạch thường thấy ở bề mặt da, thường là do bất thường về cấu trúc mạch bạch huyết, tổn thương là những cụm mụn nhỏ có màu từ hồng đến đỏ sẫm. Tổn thương lành tính và chỉ cần điều trị khi ảnh hưởng đến thẩm mỹ nhiều.
U bạch huyết dạng hang thường thấy ngay từ khi mới sinh, đôi khi cũng gặp ở lứa tuổi lớn hơn. Tổn thương thường nằm sâu dưới da và tạo khối lồi lên bề mặt da, hay gặp ở vùng cổ, lưỡi, môi. Kích thước có thể từ vài mm đến vài cm.
Trong một số trường hợp tổn thương u bạch huyết có thể ảnh hưởng đến chức năng vận động nhất là khi khối u to ở chân hoặc tay.
Nguyên nhân gây bạch huyết
Nguyên nhân trực tiếp của lymphangioma là sự tắc nghẽn của hệ thống bạch huyết từ thời kỳ bào thai, mặc dù các triệu chứng có thể không phát hiện được trong giai đoạn mang thai của người mẹ cho đến khi em bé được sinh ra.
Tắc nghẽn này được cho là gây ra bởi một số yếu tố, bao gồm: mẹ sử dụng rượu bà mẹ và nhiễm virus trong thời kỳ mang thai.
U bạch huyết dạng nang có thể bị ngay ở những tháng đầu của thai kỳ và thường liên quan đến các rối loạn về gen như hội chứng Noonan và hội chứng 3 nhiềm sắc thể 13, 18, 21.
Hội chứng Turner, hội chứng Down đã được tìm thấy ở 40% bệnh nhân với u bạch huyết dạng nang.
U bạch huyết dạng hang cũng xuất hiện trong giai đoạn phôi thai, có thể gặp ở mặt, thân mình, chân, tay. Các tổn thương này thường phát triển với một tốc độ nhanh chóng, tương tự như u máu.
U bạch huyết dạng nang thường nằm sâu dưới da hay gặp ở nách, cổ, háng, và thường phát hiện được ngay sau khi sinh. Nếu nang được hút bớt chúng có thề nhanh chóng được lấp đầy trở lại với chất lỏng. Các tổn thương sẽ phát triển và tăng kích thước nếu không được loại bỏ hoàn toàn bằng phẫu thuật.