Từ ngày 15/9/2025, Chính phủ sẽ chính thức triển khai Nghị định 248/2025/NĐ-CP quy định về chế độ tiền lương, thù lao và tiền thưởng đối với một số chức danh trong doanh nghiệp nhà nước và tổ chức tín dụng có vốn Nhà nước chi phối trên 50% (ngoại trừ các ngân hàng chính sách).
Theo nghị định này, các đối tượng được áp dụng bao gồm:
Người đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp nhà nước;
Người đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp;
Kiểm soát viên trong doanh nghiệp nhà nước;
Các tổ chức tín dụng mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.
Căn cứ Điều 4, Chương II của nghị định, mức lương cơ bản đối với thành viên hội đồng và kiểm soát viên được quy định trong khoảng 30 – 65 triệu đồng/tháng, tùy thuộc vào hiệu quả sản xuất – kinh doanh và tình hình tài chính của từng doanh nghiệp.
  Cụ thể:
Doanh nghiệp có lợi nhuận, đạt hoặc vượt kế hoạch: Lương tối đa = 2 lần mức lương cơ bản + thưởng lợi nhuận vượt kế hoạch (tối đa 20%).
Không đạt kế hoạch: Lương tối đa = 80% × 2 lần mức cơ bản, nhưng không thấp hơn 80% mức cơ bản.
Không có lợi nhuận: Lương tối đa = 70% mức cơ bản.
Doanh nghiệp thua lỗ: Lương tối đa = 50% mức cơ bản; nếu có giảm lỗ, được hưởng tối đa 80%. Trường hợp đang tái cơ cấu, có thể cộng thêm 50% mức lương xác định.
Doanh nghiệp có lợi nhuận vượt trội (từ 2 lần lợi nhuận tối thiểu trở lên): Lương tối đa có thể tăng từ 2,5 đến 4 lần mức cơ bản, tùy vào mức độ hoàn thành chỉ tiêu.
Như vậy, kể từ 15/9/2025, thành viên hội đồng và kiểm soát viên trong doanh nghiệp nhà nước cùng tổ chức tín dụng có vốn Nhà nước chi phối sẽ được áp dụng mức lương cơ bản mới từ 30 - 65 triệu đồng/tháng, đi kèm cơ chế thưởng linh hoạt theo hiệu quả hoạt động, phản ánh rõ hơn năng lực và kết quả quản trị của từng đơn vị.
Quy định về mức lương tối đa trong các trường hợp đặc thù
Đối với doanh nghiệp có lợi nhuận thấp hơn kế hoạch, tiền lương tối đa được tính bằng 80% nhân với số lần mức lương cơ bản, tương ứng với phần lợi nhuận thực hiện cao hơn lợi nhuận tối thiểu theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 5 Nghị định 248/2025/NĐ-CP, đồng thời nhân với tỷ lệ lợi nhuận thực hiện so với kế hoạch. Tuy nhiên, mức lương này không được thấp hơn mức lương cơ bản.
Với doanh nghiệp mới thành lập hoặc vừa đi vào hoạt động, trong năm đầu tiên, mức lương tối đa không được vượt quá mức lương cơ bản. Trường hợp doanh nghiệp được hình thành từ việc hợp nhất, mức lương được tính theo mức lương thực tế cao nhất của chức danh tương ứng tại các doanh nghiệp thành viên trước khi hợp nhất, nếu mức lương mới thấp hơn.
  Đối với doanh nghiệp chỉ thực hiện sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch vụ công, mức lương được xác định theo khối lượng thực hiện:
Nếu hoàn thành đủ hoặc vượt kế hoạch, lương tối đa bằng 1,5 lần mức lương cơ bản; riêng các doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế, lương tối đa có thể lên tới 2 lần mức cơ bản.
Nếu khối lượng thực hiện thấp hơn kế hoạch do chính sách của Nhà nước hoặc nguyên nhân khách quan, lương tối đa vẫn được tính bằng 1,5 lần mức cơ bản.
Nếu khối lượng thực hiện giảm do nguyên nhân khác, lương tối đa bằng 80% × 1,5 lần mức lương cơ bản × tỷ lệ hoàn thành kế hoạch, nhưng không thấp hơn 50% mức cơ bản.
Đối với doanh nghiệp vừa có hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa thực hiện nhiệm vụ sản xuất – cung ứng dịch vụ công, đơn vị có thể lựa chọn cách tính tiền lương theo hoạt động sản xuất kinh doanh (khoản 1–5 Điều 5) hoặc theo hoạt động dịch vụ công (khoản 6 Điều 5).
Riêng thành viên hội đồng, kiểm soát viên là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, viên chức quốc phòng, hạ sĩ quan hoặc người làm công tác cơ yếu, khi xác định tiền lương theo các khoản 1, 2, 3, 6 và 7 Điều 5, mức lương không được thấp hơn chế độ tiền lương, phụ cấp theo chức vụ, chức danh, cấp hàm, ngạch bậc do Chính phủ quy định đối với từng đối tượng.