Mặc dù dương lịch (lịch Gregory) đã được áp dụng rộng rãi nhưng ảnh hưởng của lịch cổ (hay gọi là âm lịch) vẫn rất sâu rộng đối với văn hóa Việt Nam. Âm lịch được dùng xác định các ngày đầu tháng, ngày Rằm, các ngày lễ, Tết, Trung thu...
Là thành quả nghiên cứu sâu sắc, lâu dài của người xưa, lịch âm (gọi đúng là lịch âm dương vì có sử dụng cả chu kỳ trái đất quay quanh mặt trời chứ không chỉ tương tác với mặt trăng), có nhiều điều huyền cơ ảo diệu và chưa thực sự dễ hiểu với "dân ngoại đạo". Nhiều người thắc mắc tại sao lại có năm nhuận âm lịch và làm thế nào để biết tháng nhuận rơi vào tháng mấy?
Để trả lời các câu hỏi này, chúng ta cần nắm rõ một vài khái niệm trước, đó là điểm sóc, hoàng đạo và trung khí.
Điểm sóc: Thời điểm mà mặt trăng, mặt trời và trái đất cùng nằm trên một đường thẳng, mặt trăng nằm ở giữa và quay nửa tối về phía trái đất. Đây là thời điểm trăng non, giúp xác định ngày đầu tiên của tháng âm lịch. Khoảng cách giữa 2 điểm sóc là 29,53 ngày.
Hoàng đạo: là một khái niệm được sử dụng trong thiên văn học và chiêm tinh học để chỉ đường đi mà mặt trời di chuyển trên quỹ đạo xung quanh trái đất. Tất nhiên vì thực tế là trái đất xoay quanh mặt trời, nên nói dễ hiểu nó là một đường ảo được chia thành 12 phần bằng nhau.
Trung khí: Đơn giản là các điểm mốc chia hoàng đạo thành 12 phần bằng nhau. Trong đó, có 4 trung khí quan trọng nhất mà ai cũng nên biết là xuân phân, hạ chí, thu phân, đông chí.
Khi nắm được những điểm này, ta đi vào câu hỏi đầu tiên: Tại sao phải có năm nhuận âm lịch?
Trước hết, lịch âm dựa vào Mặt trăng để chia tháng, mỗi tuần trăng là 1 tháng và ngày bắt đầu là ngày có thời điểm sóc. Mỗi tuần trăng dài 29,53 ngày, vậy nên để dễ tính, người ta quy ước mỗi tháng âm lịch có 29 hoặc 30 ngày. Tháng âm có 30 ngày là "tháng đủ" và tháng có 29 ngày là "tháng thiếu".
Do 1 tháng âm trung bình dài 29,53 ngày, nên 12 tháng sẽ dài 354,36 ngày, còn kém năm dương lịch khoảng 10 ngày. Để 2 lịch không bị lệch nhau quá nhiều qua thời gian, người ta tiếp tục sử dụng phương pháp "tháng nhuận", tức cứ 2 hoặc 3 năm/lần, sẽ có 1 năm âm lịch dài 13 tuần trăng. Năm âm lịch nhuận sẽ có tới 384-385 ngày.
Để biết năm nào là năm nhuận không khó. Người xưa đã quy ước cứ 19 năm thì có 7 năm nhuận. Các năm nhuận sẽ rơi vào năm số 3, 6, 9, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm. Để biết năm nào nhuận, cứ lấy năm dương của nó chia cho 19, ra số dư tương ứng 3, 6, 9, 11, 14, 17, 19 thì đó là năm nhuận.
Năm 2023 chia 19 dư 9, vậy nên năm âm lịch tương ứng của nó tức Quý Mão là năm nhuận.
Tiếp theo, ta đi tìm tháng nhuận âm lịch - tức là tháng được lặp lại để năm nhuận có 13 tháng. Việc này thực ra cũng không khó, chỉ cần biết tháng nào không có trung khí thì tháng đó có thể dùng làm tháng nhuận.
Nếu trong năm có nhiều tháng âm lịch không chứa trung khí thì ta lấy tháng đầu tiên không có trung khí sau đông chí làm tháng nhuận. Tháng Giêng và tháng Chạp thì là ngoại lệ, không bao giờ nhuận. Do năm nay tháng 2 âm lịch thỏa mãn các điều kiện trên, nên theo quy ước được lặp lại làm tháng nhuận.
Cách phân chia các giai đoạn trong năm
Tiết khí và trung khí ngày nay thường được gọi ngắn gọn là tiết khí hay đơn giản là tiết, là các giai đoạn khác nhau trong năm, mỗi giai đoạn dài 15-16 ngày, đặc trưng bởi những đặc điểm thời tiết khác nhau trong năm. Chúng được đúc rút ra từ quan sát thời tiết của người xưa qua rất nhiều năm và được đặt tên để đặc trưng cho thời tiết tương ứng. Chẳng hạn tiết đầu tiên trong năm là lập xuân, tức là bắt đầu mùa xuân, hay tiết cuối năm là đại hàn, ám chỉ giai đoạn này thường có rét đậm. Trên quan điểm thiên văn học thì các tiết này tương ứng với các vị trí khác nhau của Trái Đất trên quỹ đạo chuyển động của nó quanh Mặt Trời.
Có tất cả 24 giai đoạn xen kẽ tiết khí và trung khí hợp lại thành một năm, tương đương với một chu kỳ thời tiết. Một điểm cần lưu ý là trên thực tế, các tiết này có ngày tháng không cố định theo Âm lịch nhưng lại gần như cố định trong Dương lịch; Dương lịch vốn được đặt theo chu kỳ của Trái Đất quanh Mặt Trời, không có tháng nhuận như Âm lịch nên không có sự lệch về ngày tháng so với thời tiết. Chẳng hạn tiết lập xuân luôn rơi vào mùng 4 hoặc 5 tháng 2 Dương lịch nhưng có thể là một ngày nào đó từ cuối tháng Chạp cho đến giữa tháng Giêng trong năm Âm lịch tùy năm.
Trước đây, việc các hành tinh chuyển động quanh Mặt Trời là điều chưa được biết tới. Người xưa chỉ nhận ra rằng trong các đốm sáng trên bầu trời hàng đêm thì có 5 đốm sáng có vị trị thay đổi so với nền trời sao qua mỗi đêm, với chu kỳ khác nhau. Chúng được người phương Đông gọi là hành tinh, tức là ngôi sao vận hành (còn các ngôi sao được gọi là hằng tinh, tức là sao cố định). Các hành tinh này được đặt tên theo 5 yếu tố trong ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Người ta thấy rằng cứ khoảng 0,25 năm thì Sao Thủy lại trở lại vị trí cũ trên bầu trời so với nền trời sao, Sao Kim thì mất 0,6 năm, Sao Hỏa khoảng 2 năm, Sao Mộc khoảng 12 năm và Sao Thổ khoảng 30 năm.
Dựa vào chu kỳ năm của Sao Hỏa, người ta chia ra cứ hai năm liền nhau tương ứng với một hành trong ngũ hành, một năm mang tính âm và một năm mang tính dương theo quan niệm của Phương Đông.
Sao Mộc cứ khoảng 12 năm về vị trí cũ, bằng với số tuần Trăng trung bình trong trong một năm, một chu kỳ như vậy được đặt tên năm lần lượt theo các chi từ Tí đến Hợi. Sao Thổ có chu kỳ dài nhất trong năm hành tinh này, khoảng 30 năm. Bội số chung nhỏ nhất của các chu kỳ này là 60 năm, có nghĩa là cứ 60 năm thì cả hành tinh lại cùng ở vị trí như cũ trên bầu trời (tất nhiên con số này không đúng tuyệt đối mà chỉ tương đối).
Sao Hỏa có chu kỳ khoảng 2 năm để trở lại vị trí cũ trên bầu trời, hai năm được gán một âm và một dương. Như vậy cứ năm chu kỳ của Sao Hỏa là 10 năm, đủ hết một bộ âm - dương cho ngũ hành. 10 năm đó được đặt tên theo 10 yếu tố gọi là can, hay thiên can, mỗi can tương ứng với một yếu tô âm hoặc dương của một hành. 10 can gồm Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý trong đó Giáp, Ất tương ứng với Mộc; Bính, Đinh tương ứng với Hỏa; Mậu, Kỷ tương ứng với Thổ; Canh, Tân tương ứng với Kim; Nhâm, Quý tương ứng với Thủy.
Ngoài ra các năm còn lại được đặt tên theo chi, cứ hết chu kỳ 12 chi thì Sao Mộc lại về vị trí cũ. Như vậy tên gọi của một năm đầy đủ gồm cả Can và Chi.
Đồng thời, chu kỳ 60 năm để cả hành tinh trở lại vị trí cũ trên bầu trời cũng là bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12. Do đó, cứ 60 năm, mọt năm có tên cụ thể mới lặp lại. Chu kỳ 60 năm này thường được gọi là lục thập hoa giáp. Do đó 60 năm được coi là một chu kỳ vận động của thiên nhiên, cũng gắn với mức tuổi thọ của người xưa.