Nghề nuôi đuông cọ: Dễ dàng và hứa hẹn sinh lời
Trong bối cảnh hiện nay, một mô hình chăn nuôi mới đang thu hút sự chú ý của nhiều người dân, đó chính là nghề nuôi đuông cọ. Mô hình này không chỉ dễ thực hiện mà còn mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể. Một gia đình tại xã Mỹ Thuận, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, đã thành công trong việc áp dụng phương pháp này.
Để tạo ra môi trường sống lý tưởng cho đuông cọ, không cần phải đầu tư quá nhiều công sức. Anh Hà Văn Giang, 33 tuổi, một trong những hộ nuôi đuông cọ tại địa phương, chia sẻ: “Quá trình nuôi thực sự đơn giản. Chúng tôi chỉ cần chuẩn bị vỏ dừa, sắn và lõi cọ. Tỷ lệ trộn rất dễ, 70% là vỏ dừa, còn lại 30% là sắn và lõi cọ. Sau khi trộn đều, chúng tôi chỉ việc cho đuông cọ ăn một lần khi mới bắt đầu nuôi.”
Quá trình chăm sóc đuông cọ không yêu cầu kỹ thuật quá phức tạp. Người nuôi chỉ cần chú ý cho chúng ăn vào giai đoạn đầu, sau khi kiến vương đã hoàn tất việc đẻ trứng. Những con đuông cọ sẽ tự động tiêu thụ dinh dưỡng từ hỗn hợp vỏ dừa, sắn và lõi cọ mà không cần tác động nhiều từ phía con người. Thời gian từ khi đuông cọ nở cho đến khi trưởng thành để thu hoạch thường dao động từ 20 đến 30 ngày. Đặc biệt, đuông cọ ít bị bệnh nên tỷ lệ hao hụt rất thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho người nuôi.
Tuy nhiên, người nuôi đuông cọ cũng cần lưu ý tới một số rủi ro trong quá trình chăm sóc. Loại côn trùng này phát triển mạnh nhất trong khoảng nhiệt độ từ 30 đến 33 độ C. Nếu nhiệt độ quá thấp, sự phát triển của chúng sẽ bị cản trở. Ngược lại, nếu nhiệt độ quá cao hoặc mật độ nuôi nhốt quá dày đặc, đuông có thể bị chết. Trong mùa đông, anh Giang thường quây kín khu vực nuôi để giữ ấm và khi có ánh nắng, anh sẽ mang các xô đuông ra phơi. Đến mùa hè, anh sử dụng những không gian mát mẻ như dưới hầm để bảo vệ đuông khỏi nhiệt độ cao.
Đuông cọ có vòng đời khá đơn giản, điều này giúp người nuôi dễ dàng theo dõi và chăm sóc. Quá trình bắt đầu khi các cặp kiến vương tiến hành phối giống, sau đó, kiến vương cái sẽ đẻ trứng vào bên trong thân cây cọ đã bị chặt hạ hoặc bị sâu mọt tấn công. Mỗi cặp kiến vương có khả năng sản sinh ra khoảng 60 đến 70 con đuông.
Anh Giang chia sẻ: “Khi tôi lần đầu khám phá khu đồi, vì tò mò mà đã phanh một gốc cọ đã bị chặt ra và phát hiện thấy đuông cùng với kiến vương bên trong. Từ đó, tôi có ý tưởng thử nuôi đuông. Ban đầu, tôi chỉ để chúng sống trong lõi cọ, nhưng không thành công và phải bỏ đi hết. Sau khi tìm hiểu trên mạng, tôi đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm. Từ chỉ 20 cặp ban đầu và 5 xô nuôi đuông, hiện tại tôi đã phát triển lên hơn 20 xô nuôi."
Tận dụng tối đa tài nguyên trong nuôi đuông cọ
Gia đình anh Giang đang chuyển hướng mô hình nuôi đuông cọ thành nguồn thu nhập chính, nhờ vào lợi nhuận đáng kể từ nghề này. Anh Giang cho biết: “Trước đây, khi làm nghề sắt, tôi chỉ đủ sống qua ngày, nhưng thường xuyên thua lỗ sau mỗi công trình. Chỉ đến khi bắt tay vào nuôi đuông vào năm ngoái, tôi mới có thể trả hết nợ nần”.
Chi phí cần thiết để duy trì mỗi xô nuôi đuông chỉ rơi vào khoảng 30.000 đồng, vì nguyên liệu cho môi trường sống và thức ăn của đuông chủ yếu là các nông sản ít giá trị như vỏ dừa, lõi cọ và một số nguyên liệu như sắn.
Anh Giang chia sẻ: “Vỏ dừa thì tôi thường xin từ các quán nước, họ cũng không sử dụng mà thường vứt bỏ. Lõi cọ thì dễ xin lắm, còn sắn thì có mua nhưng giá cũng rất phải chăng”. Tuy nhiên, để đảm bảo đuông có thể sinh trưởng tốt, các nguyên liệu này cần phải tươi ngon. Nếu vỏ dừa khô hoặc sắn hư thì đuông sẽ không thể tiêu thụ. Trong trường hợp vỏ dừa hay sắn không còn tươi, anh Giang sẽ phơi khô để sử dụng làm củi dự trữ cho mùa đông.
Gia đình anh Giang luôn giữ lại một lượng đuông trưởng thành nhất định sau mỗi đợt bán hàng để làm giống. Cụ thể, họ thường để lại khoảng một xô đuông đã phát triển đủ lớn. Khi đuông chuyển sang giai đoạn kiến vương, các cặp đuông, gồm một con đực và một con cái, sẽ được chọn lọc và chuyển vào từng xô nuôi. Mỗi xô thường chứa từ 5 đến 6 cặp để đảm bảo sự sinh sản và phát triển tối ưu cho đuông. Mỗi tuần, đôi kiến vương cần được chuyển sang một xô mới để tránh tình trạng quá tải, giúp giảm thiểu nguy cơ sinh ra nhiệt độ cao khiến đuông chết.
Hiện nay, giá thị trường cho mỗi kilogram đuông cọ thành phẩm dao động từ 270.000 đến 300.000 đồng, tùy thuộc vào từng thời điểm. Mặc dù giá trị cao nhưng không phải lúc nào anh Giang cũng có hàng sẵn để bán. Anh cũng cho biết rằng vào những lúc khan hiếm, ngay cả đuông còn nhỏ và chưa đạt yêu cầu cũng có thể được chấp nhận mua bởi khách hàng.
Mặc dù nuôi đuông cọ chưa phải là hoạt động kinh tế chính của gia đình, nhưng lại đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho họ. Đuông cọ đem lại hiệu quả kinh tế vượt trội hơn so với nghề sắt của anh Giang và công việc của chị Tưởng, vợ anh. Trong mùa thu hoạch, chị Tưởng thậm chí phải tạm dừng công việc thời vụ của mình để đáp ứng nhu cầu tăng cao từ thị trường.
Vào mùa, mỗi ngày, gia đình anh Giang thu hoạch khoảng 10 xô đuông, mỗi xô cho từ 120 đến 170 con đuông thành phẩm, tương đương từ 800 gram đến 1 kg. Tuy nhiên, ngay cả với sản lượng này, họ vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Cũng ở xã Tân Sơn, nhiều người phát triển kinh tế bằng cách khai thác đuông cọ. Chị Nguyễn Thị Oanh, một cư dân của xóm Dù, xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, đã tích lũy được nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong việc khai thác đuông cọ qua nhiều năm. Theo chị, mỗi cây cọ cao khoảng 7 mét với độ mục tiêu chuẩn có khả năng cho khoảng 1 kg đuông cọ. Thực tế, việc tìm kiếm đuông cọ ngày càng trở nên khó khăn, khiến loại đặc sản này không phải lúc nào cũng có sẵn trên thị trường.
Chị Oanh hiện đang trở thành cầu nối giữa sản phẩm địa phương và những khách hàng yêu thích đuông cọ. Với danh tiếng và sự tin cậy, chỉ cần có nguồn đuông cọ chất lượng, chị sẽ nhanh chóng nhận được những cuộc gọi đặt hàng từ thực khách.
Bà con trong xóm vẫn không ngừng giới thiệu món đặc sản này đến với du khách khi họ đến thăm quê hương. Đuông cọ không chỉ là món ăn đặc biệt, mà còn là biểu tượng của văn hóa ẩm thực địa phương, có thể được chế biến thành nhiều món như xào, nướng, hay chấm với muối ớt, tất cả đều mang đến hương vị hấp dẫn cho du khách - chị Oanh chia sẻ.